THỨ HAI
BÀI ĐỌC I: Đn 13, 1-9. 15-17. 19-30. 33-62
Trong những ngày ấy, có một người đàn ông ở Babylon tên là Gioakim cưới bà vợ tên là Susanna, con của Helcia, bà rất xinh đẹp và có lòng kính sợ Chúa, vì cha mẹ bà là những người công chính, đã dạy con cho biết giữ luật Môsê. Lúc đó Gioakim rất giàu có, ông có một khu vườn gần nhà ông, các người Do-thái năng lui tới nhà ông, vì ông là người đáng kính hơn mọi người khác.
Năm đó, người ta đã đặt lên hai vị thẩm phán trong dân. Chúa đã phán về những kẻ ấy rằng: “Sự gian ác phát sinh từ Babylon bởi những vị thẩm phán kỳ lão, là những người xem ra như cai quản dân chúng”. Các ông năng lui tới nhà ông Gioakim, nên tất cả những ai kiện tụng, thì tìm gặp các ông ở đó. Đến trưa, khi dân chúng trở về nhà, bà Susanna vào đi bách bộ trong vườn của chồng. Hai vị kỳ lão thấy bà mỗi ngày đi bách bộ trong vườn, thì phải lửa dục mê đắm; hai ông mất lương tâm, không còn muốn đưa mắt nhìn lên trời và không còn muốn nhớ đến sự xét xử công minh.
Hai ông chờ ngày thuận tiện, lúc bà Susanna vào vườn như hôm trước và hôm trước nữa, bà chỉ dẫn theo hai cô thiếu nữ, bà muốn tắm trong vườn, vì trời nóng bức. Lúc bấy giờ ở đó không có ai, ngoài hai vị kỳ lão đang ẩn núp và ngắm nhìn bà. Bà nói với hai cô thiếu nữ rằng: “Hãy mang dầu và thuốc thơm cho ta, rồi đóng cửa vườn lại để ta tắm”.
Khi hai cô thiếu nữ ra khỏi vườn, hai vị kỳ lão đứng lên, tiến lại gần bà Susanna và nói: “Kìa cửa vườn đã đóng hết; không ai trông thấy ta đâu, chúng tôi say mê bà, bà hãy chấp nhận lời yêu cầu của chúng tôi và hiến thân cho chúng tôi. Nếu bà không chấp nhận, chúng tôi sẽ làm chứng nói bà phạm tội với một thanh niên, và vì đó, bà đã bảo các cô thiếu nữ ra khỏi vườn”.
Bà Susanna thở dài và nói: “Tôi phải khốn cực tư bề; nếu tôi hành động như thế, tôi phải chết, và nếu tôi không hành động như thế, tôi cũng không thoát khỏi tay các ông. Nhưng thà tôi phải tay các ông mà không làm điều gì phạm tội trước mặt Chúa thì hơn!” Đoạn bà tri hô lên, nên hai vị kỳ lão cũng kêu lên tố cáo bà. Và một trong hai ông chạy ra mở cửa vườn. Khi người nhà nghe tiếng kêu la trong vườn, liền đổ xô ra cửa để xem coi việc gì đã xảy ra. Khi nghe hai vị kỳ lão kể lại, thì các đầy tớ rất lấy làm hổ thẹn, vì thiên hạ không khi nào nghe nói như thế về bà Susanna.
Ngày hôm sau, khi dân chúng tụ họp tại nhà ông Gioakim, chồng bà Susanna, hai vị kỳ lão cũng đến, lòng đầy những ý nghĩ bất chính để tố cáo bà Susanna cho người ta giết bà. Hai ông nói với dân chúng: “Các người hãy đi tìm bà Susanna, con ông Helcia, vợ của ông Gioakim”. Người ta liền sai đi bắt bà, bà đến với cả cha mẹ, con cái và tất cả họ hàng. Nhưng tất cả họ hàng và mọi kẻ biết rõ bà đều khóc lóc.
Khi hai vị kỳ lão ra đứng giữa dân chúng, hai ông đặt tay lên đầu bà. Bà Susanna thì khóc lóc, ngước mắt lên trời, vì tâm hồn bà tin tưởng nơi Chúa. Hai vị kỳ lão nói: “Khi chúng tôi đi bách bộ một mình trong vườn, bà này đi vào với hai đứa tớ gái. Bà bảo hai đứa đóng cửa vườn lại, rồi đi ra. Bấy giờ một chàng thanh niên đã ẩn núp trong vườn tiến tới gần bà và phạm tội với bà. Lúc đó chúng tôi núp ở góc vườn, nhìn thấy tội ác, chúng tôi liền chạy đến bắt quả tang hai người đang phạm tội. Chúng tôi không bắt được chàng thanh niên, vì anh ta khoẻ mạnh hơn chúng tôi, nên đã mở cửa tẩu thoát. Còn bà này chúng tôi bắt được, chúng tôi gạn hỏi chàng thanh niên đó là ai, nhưng bà không muốn nói cho chúng tôi biết. Đó là điều chúng tôi xin làm chứng”. Dân chúng tin lời hai ông nói, vì hai ông là bậc kỳ lão trong dân và là thẩm phán, nên họ lên án tử hình cho bà.
Bấy giờ bà Susanna kêu lớn tiếng rằng: “Lạy Chúa hằng hữu, Đấng thấu biết mọi bí ẩn và mọi sự trước khi xảy ra, Chúa biết họ làm chứng gian hại con; và đây con phải chết, dù con không làm điều gì mà họ ác ý vu khống cho con”.
Chúa nhậm lời bà. Khi họ dẫn bà đi xử tử, thì Chúa giục thần trí một đứa trẻ tên là Đaniel. Trẻ này kêu lớn rằng: “Còn tôi, tôi không vấy máu bà này”. Mọi người hướng mắt nhìn về đứa trẻ và nói: “Lời mi nói có ý nghĩa gì?” Đứa trẻ ra đứng giữa mọi người và nói: “Hỡi con cái Israel, các ngươi ngu muội thế sao, khi chưa xét xử và chưa biết sự thật thế nào, mà lại lên án một thiếu nữ Israel? Các người hãy xét xử lại, vì hai ông đã làm chứng dối hại bà”.
Bấy giờ dân chúng vội vã trở lại. Các kỳ lão nói với Đaniel: “Này, em hãy ngồi giữa chúng tôi và bảo cho chúng tôi, vì Thiên Chúa đã cho em danh dự của bậc kỳ lão”. Đaniel liền nói với họ: “Các người hãy tách biệt hai ông ra, và cho hai ông đứng xa nhau, rồi tôi xét xử hai vị kỳ lão cho”.
Khi hai ông đứng xa nhau, Đaniel gọi ông thứ nhất đến và nói: “Hỡi lão già độc ác, các tội xưa kia ông đã phạm, giờ đây lại tái phạm, ông đã xét xử bất công, đã lên án kẻ vô tội và tha cho người có tội, mặc dầu có lời Chúa phán: “Ngươi chớ giết kẻ vô tội và người công chính”. Vậy nếu ông thấy bà Susanna phạm tội, thì hãy nói hai người phạm tội dưới cây gì?” Ông ta trả lời: “Dưới cây chò”. Đaniel liền nói: “Đúng là ông nói dối. Đây sứ thần Chúa được lệnh phân thây ông”. Đaniel cho ông ta lui ra, và bảo dẫn ông kia đến. Đaniel nói với ông này rằng: “Hỡi dòng giống Canaan, chớ không phải dòng giống Giuđa, sắc đẹp đã mê hoặc ông, và tình dục đã làm cho tâm hồn ông ra đồi bại. Ông đã cư xử như thế đối với các thiếu nữ Israel, các cô vì sợ mà phạm tội với ông. Nhưng một thiếu nữ Giuđa không chiều theo tội ác của ông. Vậy bây giờ, ông hãy nói cho tôi biết ông đã bắt được hai người phạm tội dưới cây gì?” Ông ta trả lời: “Dưới cây sồi”. Đaniel liền nói: “Cả ông nữa, ông hoàn toàn nói dối, cho nên thiên thần Chúa, tay cầm gươm, chờ đợi phân thây tiêu diệt ông”.
Bấy giờ tất cả dân chúng hô lớn tiếng và chúc tụng Chúa đã cứu thoát những kẻ trông cậy vào Chúa. Đoạn họ nghiêm trị hai vị kỳ lão mà Đaniel đã minh chứng rằng hai ông đã vu khống, họ đã xử với hai ông như hai ông đã xử độc ác với kẻ khác. Chiếu theo luật Môsê, họ lên án xử tử hai ông, và ngày hôm đó máu người vô tội khỏi đổ oan.
BÀI PHÚC ÂM: Ga 8, 12-20
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người biệt phái rằng: “Ta là sự sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống”.
Những người biệt phái nói: “Ông tự làm chứng cho mình, nên chứng của ông không xác thực”.
Chúa Giêsu trả lời: “Cho dầu Ta tự làm chứng về Ta, thì chứng của Ta cũng xác thực, vì Ta biết rõ Ta từ đâu tới và đi về đâu. Còn các ông, các ông không biết Ta từ đâu tới, cũng chẳng biết Ta đi đâu. Các ông đoán xét theo xác thịt; còn Ta, Ta không đoán xét ai. Hoặc nếu Ta có đoán xét, thì sự đoán xét của Ta cũng xác thực, bởi vì không phải chỉ có mình Ta, nhưng còn có Cha Ta là Đấng đã sai Ta. Vả lại trong luật của các ông có ghi: Chứng của hai người thì xác thực. Ta tự làm chứng về Ta, và Đấng đã sai Ta, là Chúa Cha, cũng làm chứng cho Ta nữa”.
Họ nói: “Cha của ông đâu?” Chúa Giêsu trả lời: “Các ông không biết Ta, cũng chẳng biết Cha Ta. Nếu các ông biết Ta thì cũng sẽ biết Cha Ta”.
Chúa Giêsu nói những lời trên gần nơi để Kho Tiền, khi Người giảng dạy trong đền thờ. Thế mà không ai bắt Người, vì chưa đến giờ Người.
SUY NIỆM
Lời Chúa trong bài đọc 1 ngày hôm nay cho chúng ta thấy được sức mạnh của tội lỗi, sức mạnh của sự cám dỗ, đặc biệt là cám dỗ về sắc dục, về điều răn thứ sáu.
Hai vị kỳ lão là những bậc vị vọng trong dân, là những người được xem là đại diện cho chính nghĩa, là những người được xem là gương mẫu, cũng đã bị sắc dục mê hoặc làm cho sự thật bị đảo lộn, cho thân bại danh liệt và chuốc lấy án tử cho bản thân.
Có thể nói trong các cám dỗ về danh – lợi – thú, thì cám dỗ về thú vui xác thịt dễ đánh gục con người nhất. Cám dỗ này không trừ một ai. Từ già đến trẻ, từ nam đến nữ, từ người độc thân đến người có gia đình, từ người đời đến người tu…
Điều quan trọng là chúng ta phải tỉnh thức, phải chiến đấu. Nếu chiều theo cám dỗ xác thịt, lỗi điều răn thứ sáu và một khi làm nô lệ cho nó thì chúng ta sẽ dễ biến mình trở nên một con người bất chính, đời sống mất tự do…
Đứng trước tội lỗi của người khác, con người kết án nhau, nhưng Thiên Chúa luôn tha thứ cho chúng ta: “Hãy về đi và đừng phạm tội nữa”. Nếu có ai đang vướng vào đam mê dục vọng, xin Chúa giúp chúng ta biết từ bỏ, nếu chúng ta đang bị cám dỗ xin Chúa giúp chúng ta chiến đấu để đừng rơi vào cạm bẫy này.
Lạy Chúa, Chúa cho chúng con những ngày chay thánh là để chúng con sám hối, ăn chay cầu nguyện, hy sinh khổ chế để chế ngự đam mê, kiềm hãm dục vọng để tâm hồn được thanh thoát, và để chúng con kết hợp vào cuộc khổ nạn của Chúa. Xin Chúa ban sức cho chúng con chiến đấu chống lại ba thù đặc biệt về đam mê thể xác. Amen.
THỨ BA
BÀI ĐỌC I: Ds 21, 4-9
Trong những ngày ấy, các người Do-thái rời bỏ núi Hor, theo con đường về phía Biển Ðỏ, để vòng quanh xứ Eđom. Dân chúng đi đường xa mệt nhọc, nên nản chí, kêu trách Chúa và Môsê rằng: “Tại sao các người dẫn chúng tôi ra khỏi Ai-cập, cho chúng tôi chết trong hoang địa. Không bánh ăn, không nước uống, chúng tôi đã ngán thức ăn nhàm chán này”.
Bởi đó Chúa cho rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người, họ chạy đến cùng Môsê và thưa rằng: “Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi nói những lời phản nghịch Chúa và phản nghịch ông. Xin ông cầu nguyện để Chúa cho chúng tôi khỏi rắn cắn”. Môsê cầu nguyện cho dân. Và Chúa phán cùng Môsê rằng: “Ngươi hãy đúc một con rắn đồng và treo nó lên làm dấu; kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được sống”. Môsê đúc một con rắn đồng, treo nó lên làm dấu, và kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được chữa lành.
BÀI PHÚC ÂM: Ga 8, 21-30
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người biệt phái rằng: “Ta ra đi, các ông sẽ tìm kiếm Ta và sẽ chết trong tội của các ông. Nơi Ta đi các ông không thể tới được”.
Người Do-thái nói với nhau rằng: “Ông ta sắp tự vẫn hay sao mà lại nói “Nơi Ta đi các ông không thể tới được”?”
Chúa Giêsu nói tiếp: “Các ông thuộc về hạ giới; còn Ta, Ta bởi trời cao. Các ông thuộc về thế gian này; còn Ta, Ta không thuộc về thế gian này. Ta đã nói: Các ông sẽ chết trong tội các ông. Vì, nếu các ông không tin Ta, các ông sẽ chết trong tội của các ông”.
Vậy họ liền hỏi: “Ông là ai?” Chúa Giêsu trả lời: “Là Nguyên thuỷ đang nói với các ông đây! Ta có nhiều điều phải nói và đoán xét về các ông, nhưng Ðấng đã sai Ta là Ðấng chân thật, và điều Ta nói ra trong thế gian đây, chính là điều Ta đã nghe biết ở Ngài”.
Nhưng họ không hiểu là Người nói về Chúa Cha, vì thế Chúa Giêsu nói: “Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai. Ta không tự mình làm điều gì. Ðiều Ta nói, chính là điều Chúa Cha đã dạy Ta. Ðấng đã sai Ta đang ở với Ta; Ngài không để Ta một mình, bởi vì Ta luôn luôn làm điều đẹp lòng Ngài”. Khi Người nói những điều ấy thì có nhiều kẻ tin vào Người.
SUY NIỆM
Người Do thái được Thiên Chúa giải thoát khỏi ách nô lệ Ai cập, để đưa họ về miền Đất Hứa, “vùng đất tràn trể sữa và mật”. Họ dù thoát khỏi cảnh nô lệ Ai cập, nhưng lại không thoát khỏi nô lệ thân xác. Thay vì họ tạ ơn Thiên chúa, cám ơn Mô sê đã giải thoát họ, thì họ lại kêu trách Chúa, than trách Mô sê, bởi vì họ thiếu ăn ngon, những thứ mà dù là sống trong kiếp nô lệ họ vẫn được cung cấp.
Thiên Chúa nổi giận và ra án phạt bằng việc cho rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người, nhưng ngay sau đó, Ngài đã chỉ cho họ con đường để được cứu thoát: ai nhìn lên rắn đồng thì được cứu.
Trong mùa chay, Thiên Chúa cũng mong muốn con cái Ngài quay trở lại. Nếu chúng ta ý thức mình tội lỗi, và quyết tâm trở về với Chúa qua Bí tích Hòa giải, thì chúng ta sẽ được Thiên Chúa tha thứ và cứu khỏi chết.
Ơn cứu độ thiên Chúa luôn ban cho chúng ta bất cứ lúc nào, điều quan trọng là chúng ta có muốn sám hối ăn năn quay trở lại với Ngài, có muốn được cứu thoát hay không mà thôi.
Lạy Chúa, mùa chay là mùa để cho chúng ccon sám hối ăn năn, để nhìn lại cuộc sống, để biến đổi, và đặc biệt là để chúng con giao hòa với Chúa, với nhau và với chính bản thân mình. Xin cho chúng con biết quyết tâm quay trở về với Chúa để được đón nhận ơn tha thứ từ Lòng Thương Xót của Chúa. Amen.
THỨ TƯ
BÀI ĐỌC I: Đn 3, 14-20. 91-92. 95
Trong những ngày ấy, vua Nabucôđônôsor nói rằng: “Hỡi Sidrach, Misach và Abđênagô, có phải các ngươi không chịu thờ các thần của ta và lạy tượng vàng ta đã dựng không? Vậy nếu các ngươi đã sẵn sàng, thì lúc nghe tiếng kèn, tiếng huyền cầm, tiếng còi, quyển sáo và các thứ nhạc khí, các ngươi phải sấp mình thờ lạy tượng ta đúc. Nhưng nếu các ngươi không chịu sấp mình thờ lạy, lập tức các ngươi sẽ bị ném vào lò lửa cháy bừng. Và coi Chúa nào sẽ cứu thoát các ngươi khỏi tay ta”. Sidrach, Misach và Abđênagô trả lời với vua Nabucôđônôsor rằng: “Tâu lạy vua, chúng tôi không cần trả lời cùng vua về việc này, vì đây Thiên Chúa chúng tôi thờ có thể cứu thoát chúng tôi khỏi lò lửa cháy bừng, và khỏi tay đức vua; nhược bằng Thiên Chúa chúng tôi không muốn thì, tâu lạy vua, vua nên biết rằng chúng tôi không thờ các thần của vua và không lạy tượng vàng của vua dựng lên”.
Bấy giờ vua Nabucôđônôsor thịnh nộ, mặt biến sắc, nhìn thẳng vào Sidrach, Misach và Abđênagô, ông ra lệnh đốt lò nóng hơn thường gấp bảy lần, và truyền lệnh các tráng sĩ trong cơ binh trói chân Sidrach, Misach và Abđênagô, và ném vào lò lửa cháy bừng.
Bấy giờ vua Nabucôđônôsor bỡ ngỡ, vội vã đứng lên và nói với các triều thần rằng: “Chớ thì ta không ném ba người bị trói vào lò lửa sao?” Các ông trả lời với vua rằng: “Tâu lạy vua, thật có”. Vua nói: “Đây ta thấy có bốn người không bị trói đi lại giữa lò lửa mà không hề hấn gì; dáng điệu người thứ tư giống như Con Thiên Chúa”. Vua Nabucôđônôsor nói tiếp: “Chúc tụng Chúa của Sidrach, Misach và Abđênagô, Đấng đã sai thiên thần của Người đến giải thoát các tôi tớ tin cậy Người, không chịu vâng phục mệnh lệnh của nhà vua và thà hy sinh thân xác, chớ không phục luỵ thờ lạy Chúa nào khác ngoài Thiên Chúa của họ”.
BÀI PHÚC ÂM: Ga 8, 31-42
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người Do-thái đã tin nơi Ngài rằng: “Nếu các ngươi cứ ở trong lời Ta, các ngươi sẽ thật là môn đệ của Ta, và sẽ được biết sự thật, và sự thật giải thoát các ngươi”. Họ thưa lại Người: “Chúng tôi là con cháu Abraham, và chưa bao giờ làm nô lệ ai cả. Tại sao ông lại nói “Các ngươi sẽ được tự do”?”. Chúa Giêsu trả lời rằng: “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Hễ ai phạm tội, thì làm nô lệ cho tội. Mà tên nô lệ không ở mãi trong nhà; người con mới ở vĩnh viễn trong nhà. Vậy nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi sẽ được tự do thực sự. Ta biết các ngươi là con cháu Abraham, thế mà các ngươi lại tìm giết Ta: vì lời Ta không thấm nhập vào lòng các ngươi. Ta nói những điều Ta đã thấy nơi Cha Ta. Còn các ngươi, các ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha các ngươi”. Họ đáp lại: “Cha chúng tôi chính là Abraham!” Chúa Giêsu nói: “Nếu thực các ngươi là con cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc của Abraham! Nhưng các ngươi đang tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi biết sự thật mà Ta nghe tự Thiên Chúa. Điều đó Abraham đã không làm! Các ngươi đang làm việc của cha các ngươi!” Họ lại nói: “Chúng tôi không phải là những đứa con hoang! Chúng tôi chỉ có một Cha là Thiên Chúa!” Chúa Giêsu nói: “Nếu Thiên Chúa là Cha các ngươi, thì các ngươi yêu mến Ta, vì Ta tự Thiên Chúa mà đến; vì Ta không tự mình mà đến, nhưng chính Ngài đã sai Ta đến”.
SUY NIỆM
Lời Chúa ngày hôm nay là một động lực hay nói đúng hơn là một bảo đảm cho những ai luôn trung thành với Chúa.
Dù thế lực trần gian có mạnh đến đâu, quyền lực đến đâu, nhưng nếu chúng ta trung thành, không khuất phục mà vẫn quyết tâm trung thành với Thiên Chúa, tôn thờ một mình Ngài, thì dù có đứng trước nguy hiểm thì Thiên Chúa vẫn luôn giữ gìn. Lời Chúa trong sách Daniel đã minh chứng cho chúng ta điều đó.
Thiên Chúa không hề bỏ rơi những ai tôn thờ Ngài hết lòng. Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi những ai thật sự tin cậy nơi Ngài, và Thiên Chúa sẽ luôn giữ gìn chúng ta khỏi mọi điều ác hại.
Sidrash, Misach, Abbenago và tất cả các thánh, cũng như các thánh tử đạo tại Việt Nam đã minh chứng cho chúng ta.
Thờ ngẫu tượng, thờ bụt thần, quyền lực, danh vọng, thể xác là những con bò vàng mà một số Kitô hữu ngày nay đang sụp lạy. Qua Lời Chúa ngày hôm nay cho thấy những thứ đó sẽ sụp đổ, nhưng chỉ có một mình Thiên Chúa duy nhất toàn năng giải thoát thể xác và linh hồn chúng ta mà thôi, với điều kiện chúng ta tuyệt đối tin nơi Ngài.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết từ bỏ mọi sự thế gian để chỉ yêu mến tôn thờ và trông cậy Ngài mà thôi. Amen.
THỨ NĂM
BÀI ĐỌC I: St 17, 3-9
Trong ngày ấy, Abram sấp mình xuống đất và Thiên Chúa phán cùng ông rằng: “Này Ta đây, Ta giao ước với ngươi, ngươi sẽ làm tổ phụ nhiều dân tộc. Thiên hạ sẽ không còn gọi ngươi là Abram nữa, nhưng sẽ gọi là Abraham, vì Ta đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ta sẽ ban cho ngươi con cháu đông đúc. Ta sẽ đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc, và nhiều vua chúa xuất thân từ ngươi. Ta sẽ thiết lập giao ước vĩnh viễn giữa Ta với ngươi cùng con cháu ngươi từ thế hệ này qua thế hệ khác, để Ta trở nên Thiên Chúa của ngươi và của dòng dõi ngươi. Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi đất mà ngươi cư ngụ, sẽ cho ngươi làm chủ vĩnh viễn toàn cõi đất Canaan và Ta sẽ là Chúa của chúng”.
Chúa lại phán cùng Abraham rằng: “Phần ngươi và dòng dõi ngươi, từ đời nọ sang đời kia, hãy giữ lời giao ước của Ta”.
BÀI PHÚC ÂM: Ga 8, 51-59
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với người Do-thái rằng: “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Nếu ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ không phải chết”. Người Do-thái lại nói: “Bây giờ thì chúng tôi biết rõ ông bị quỷ ám. Abraham đã chết và các tiên tri cũng vậy, thế mà ông lại nói: “Ai giữ lời Ta, thì không bao giờ phải chết”. Chẳng lẽ ông lại lớn hơn cha chúng tôi là Abraham sao? Ngài đã chết, các tiên tri cũng đã chết. Ông cho mình là ai?”
Chúa Giêsu trả lời: “Nếu Ta tự tôn vinh chính mình, thì vinh quang của Ta sẽ không giá trị gì. Chính Cha Ta tôn vinh Ta. Người là chính Đấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các ngươi không biết Người. Còn Ta, Ta biết Người. Nếu Ta nói Ta không biết Người, thì Ta cũng nói dối như các ngươi. Nhưng Ta biết Người, và Ta giữ lời Người. Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng”.
Người Do-thái liền nói: “Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã trông thấy Abraham rồi sao?” Chúa Giêsu trả lời: “Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi: Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi”.
Bấy giờ họ lượm đá ném Ngài, nhưng Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ.
SUY NIỆM
Bài trích sách Sáng thế hôm nay cho chúng ta thấy được tình thương của Thiên Chúa dành cho con người. Thiên Chúa hứa cho con người mà đại diện là Abraham tất cả những gì tốt đẹp nhất. Nào là con cháu đông như sao trên trời như cát dưới biển, ban cho ông trở thành cha của các dân tộc, và nhiều vua chúa xuất thân từ dòng tộc ông. Có thể nói đây là điều mà con người chưa hề dám nghĩ tới để cầu xin cùng Thiên Chúa. Vậy mà Thiên Chúa lại ban cho con người những điều lớn laao như thế.
Nhưng Thiên Chúa cũng đặt ra một điều kiện, để được hưởng mãi những ân lộc đó thì con người mọi đời phải tuân giữ giao ước của Thiên chúa. Ngày nào con người giữ lời Chúa thì con người sẽ được nhiều phúc lộc, và phúc lộc này sẽ mất đi khi con người phản bội lời hứa này.
Điều này cho chúng ta thấy, giữ Lời Chúa, luật Chúa, con người không bị thiệt thòi, nhưng trái lại, được lãnh nhận nhiều điều tốt đẹp.
Chúng ta hãy nhìn lại đời sống của mình, chúng ta có đang tuân giữ Lời Chúa hay đang phản bội lại điều mà cha ông đã hứa. chúng ta có đang muốn hưởng hạnh phúc mà Thiên Chúa ban cho hay chúng ta cố tình để không muốn lãnh nhận ơn ban đó khi rời xa huấn lệnh Ngài.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn cố gắng trung thành hằng ngày với lề luật Chúa, với mệnh lệnh Chúa truyền, để chúng con được hưởng trọn vẹn điều mà Thiên Chúa đã, đang và sẽ ban cho chúng con. Amen.
THỨ SÁU
Bài Đọc I: Gr 20, 10-13
Tôi đã nghe nhiều người thoá mạ và chế nhạo rằng: “Người này gieo khủng bố khắp nơi. Chúng ta hãy tố cáo nó, chúng ta hãy tố cáo nó”. Tất cả bạn hữu tôi rình tôi vấp ngã mà nói rằng: “Ước gì nó bị lừa dối để chúng ta thắng nó và sẽ trả thù nó”. Nhưng Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng; vì thế, những kẻ bắt bớ tôi sẽ ngã quỵ và kiệt sức. Chúng sẽ thất bại bẽ bàng, chuốc lấy sự hổ nhục muôn đời, không bao giờ quên được.
Còn Chúa, lạy Chúa các đạo binh, Đấng xét xử người công chính, thấu suốt tâm can, lạy Chúa, ước gì con sẽ được thấy Chúa trả thù chúng cho con, vì con đã tỏ bày công việc con cho Chúa.
Hãy hát mừng Chúa, hãy ca tụng Chúa, vì Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ.
BÀI PHÚC ÂM: Ga 10, 31-42
Khi ấy, người Do-thái lượm đá để ném Chúa Giêsu. Người lên tiếng hỏi rằng: “Ta đã cho các ngươi thấy nhiều việc tốt lành bởi Cha Ta. Vậy vì việc nào mà các ngươi muốn ném đá Ta?”
Người Do-thái trả lời: “Chúng tôi muốn ném đá ông không phải vì việc lành, nhưng vì một lời lộng ngôn, bởi vì ông chỉ là người mà lại tự cho mình là Thiên Chúa”.
Chúa Giêsu đáp lại: “Nào trong sách luật của các ngươi không có chép câu này: “Ta đã nói: các ngươi là thần”? Vậy nếu sách luật gọi những kẻ được nghe lời Chúa là thần, mà Kinh Thánh không thể huỷ diệt được, thì tại sao các ngươi nói với Đấng đã được Chúa Cha thánh hoá và sai đến trong trần gian rằng “Ông nói lộng ngôn”, vì Ta đã nói Ta là Con Thiên Chúa? Nếu Ta không làm những việc của Cha Ta, thì các ngươi đừng tin Ta. Nhưng nếu Ta làm những việc đó, thì dầu các ngươi không muốn tin Ta, cũng hãy tin vào các việc đó, để các ngươi biết và tin rằng: Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha”.
Bởi đó họ tìm cách bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ. Người lại qua bên kia sông Giođan, nơi trước kia Gioan đã làm phép rửa. Và Người ở lại đó. Có nhiều kẻ đến cùng Người. Họ nói: “Gioan đã không làm một phép lạ nào. Nhưng mọi điều Gioan nói về người này đều đúng cả”. Và có nhiều kẻ tin Người.
SUY NIỆM
Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng; Chúa là Đấng xét xử người công chính; Chúa thấu suốt tâm can.
Tiên tri Giêrêmia đã cảm nhận được sự trợ giúp từ nơi Thiên Chúa mà ông tôn thờ. Một Thiên Chúa công minh, ngay thẳng, sẽ bênh vực quyền lợi cho những ai sống trong sự công chính, trong lẽ phải và lòng dạ thẳng ngay.
Mỗi người Ki tô hữu chúng ta cũng mang tâm trạng giống Tiên tri của Chúa, nhưng có điều tiên tri của Chúa là người công chính thật sự, còn chúng ta, liệu chúng ta có dám cho mình là người công chính để xin Chúa trả thù cho chúng ta?
Nhưng có một điều chắc chắn rằng, nếu mỗi người chúng ta luôn trung thành với Chúa, tôn thờ Chúa và làm việc mà Chúa kêu gọi chúng ta làm thì chắc chắn những khi gặp gian nan khốn khổ, Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta.
Điều này chúng ta sẽ thấy rõ qua hình ảnh của Đấng Cứu Thế. Để thi hành Thánh ý Cha, để hoàn thành trọng trách Cha giao, Ngài phải trãi qua bao nhiêu gian lao, khốn khổ; khổ vì hoàn cảnh, khổ vì con người, nhưng Ngài vẫn luôn phó thác và tin tưởng tuyệt đối vào Cha. Và Cha không hề bỏ rơi Ngài.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết rằng, tin tưởng vào Chúa, thi hành ý Chúa, thì dù trong hoàn cảnh nào Chúa vẫn ở bên con như người lính chiến hùng dũng, Chúa vẫn bên con để trả lại sự công minh cho người trung thành với Chúa. Xin cho chúng con tin tưởng để thi hành Thánh ý Ngài dù đang gặp phải những khó khăn gian khổ trong sứ mạng của mình. Amen.
THỨ BẢY
19/03 THÁNH GIUSE, BẠN TRĂM NĂM ĐỨC MARIA.
BÀI ĐỌC I: 2 Sm 7, 4-5a. 12-14a. 16
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Nathan rằng: “Hãy đi nói với Đavít tôi tớ Ta rằng: Khi ngày của ngươi đã viên mãn, ngươi sẽ yên nghỉ với các tổ phụ ngươi; sau đó, Ta sẽ cho miêu duệ ngươi lên kế vị và Ta sẽ làm cho triều đại người được vững bền. Chính người sẽ xây cất một ngôi nhà để kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngôi báu triều đại người được củng cố đến muôn đời. Ta sẽ là Cha của người, và người sẽ là con Ta. Nhà của ngươi và triều đại của ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta, ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi”.
BÀI PHÚC ÂM: Mt 1, 16. 18-21. 24a
Giacóp sinh Giuse là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Đức Kitô. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì Thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: “Hỡi Giuse con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội”. Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền.
SUY NIỆM
Hôm nay chúng ta mừng lễ Thánh Giuse bạn trăm năm Đức Trinh Nữ Maria. Tên Giuse có nghĩa là “xin Chúa ban thêm nữa”. Giuse thuộc dòng tộc David, nơi Ngài sinh trưởng là Nazaret, miền Galile, chính nơi đây Ngài kết hôn với Đức mẹ và cũng tại đây Ngài nhận Đức Mẹ về nhà mình.
Ngài là một người sống rất thánh thiện. Sự thánh thiện của Nài có 2 nền tảng trong kinh thánh: Thứ nhất, Kinh Thánh gọi ngài là “Đấng Công Chính”. Mà sự công chính trong Cựu Ước có nghĩa là người chu toàn lề luật Thiên Chúa, hoàn toàn theo ý Chúa, hoặc tràn đầy nhân đức, tùy theo trường hợp mỗi người. Thứ hai, qua Tin Mừng, chúng ta thấy thánh Giuse đã thực hiện nhiều nhân đức với mức độ anh hùng: ngài mau mắn chu toàn thánh ý Thiên Chúa ngay khi biết được ý Người. Ngài cũng tin theo lời Thiên Thần trong một vấn đề nan giải, khó hiểu là việc thụ thai mầu nhiệm của Đức Maria. Ngài tỏ ra hết sức tế nhị với Đức Mẹ. Ngài đã dùng đôi tay vất vả để lao động phục vụ cho gia đình; ngài đã chia sầu cộng khổ với Đức Mẹ tại Bê lem, trong cuộc trốn sang Ai cập, khi Chúa ở lại đền thờ Gierusalem…
Với một đời sống thánh thiện, Thánh Giuse đã nên gương mẫu cho chúng ta về nhiều phương diện, nhiều nhân đức. Ngài cũng là tấm gương về sự nhịn nhục, khó khăn, là mẫu mực cho những người lao động… Tóm lại thánh Giuse đã thực hiện chính lời mà Chúa Giêsu khuyên dạy: “các con hãy nên hoàn thiện như Cha các con”.
Xin Chúa qua lời chuyển cầu của Thánh Giuse cho tất cả chúng con luôn biết cộng tác với ơn Chúa để hoàn thành cuộc đời cũng như mọi hoạt động của chúng con.
Lm. Pr. Trần Trung Dũng