Chẳng có người cha nào lại không yêu thương con cái! Không có ngươi cha nào lại không mong muốn những đứa con đi hoang trở về. Có lẽ, chỉ những người cha vô tâm mới không xử sự như vậy, bởi vì, thiên chức và ơn gọi của người cha chính là yêu thương con cái và làm cho con cái nên người.
Tuy nhiên, yêu thương con cái như người cha trong Tin mừng hôm nay thì chỉ có một. Ông quả là một người cha khác thường. Ông không có một chút nghiêm khắc nào cả, nhưng thật dịu hiền – có thể nói, ông quá hiền; hiền đến độ, ông biết việc người con thứ chia gia tài trong lúc ông còn sống là một điều bất trung bất hiếu, vì khi còn sống, người cha không buộc chia gia tài cho con. Thế mà, ông không trách mắng cũng không nghiêm phạt anh ta về cách sống sai trái của anh ta; trái lại, ông tỏ ra tôn trọng sự tự do và quyền lựa chọn của người con thứ, và còn tỏ ra quảng đại biết bao khi ông trao cho anh quyền thừa hưởng gia tài. Ông đã lựa chọn việc “yêu người con”, và chỉ biết yêu thương.
Sách Tin mừng kể tiếp, từ ngày người con thứ ra đi, ông ăn ngủ không yên, lòng chỉ mong đứa con trở về; bằng chứng là: vừa thấy con từ xa, ông đã chạy tới ôm chầm lấy nó, không kịp để nó nói với ông những lời mà nó soạn sẵn trong lúc nó túng quẫn; lúc nó chẳng biết bám víu vào đâu. Không chỉ có thế, ông còn hôn lấy hôn để, sai gia nhân lấy áo đẹp mặc cho nó, xỏ nhẫn quý vào tay, và còn bắt con bê béo làm thịt để ăn mừng.
Người cha ấy thật khác thường! Ông không nghĩ tới quá khứ của con, nhưng chỉ nhìn người con hoang đàng trong tư cách nó là con. Ông không chấp tội nó. Ông tha thứ tất cả, mặc dù ông biết, nó trở về chẳng qua chỉ là đói quá, đến thức ăn của heo cũng chẳng có mà ăn. Ông cũng biết việc nó trở về không phải vì nó thương ông, do nó hối hận về quá khứ của nó – một quá khứ lỗi lầm, nhưng nó trở về, bởi vì nó tự nhủ: “biết bao người làm công cho cha ta, được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói”.
Nghĩa là nó trở về bởi nó thương cái xác nó, bởi nó đói quá. Thế mà, như bài Tin mừng cho thấy, ông không cần biết lý do nào đã đưa đứa con hoang trở về, ông chỉ cần biết: “Con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”, ông chỉ biết nó là một đứa con; nghĩa là, ông đã quên cả bản thân mình, ông chỉ để ý tới đứa con mà thôi!. Đối với ông không hề có chuyện đứa con hoang đàng bỏ đi, vì ông luôn mang nó trong lòng, vì trong ý nghĩ của ông, từ ngữ “hoang đàng” không hề hiện hữu. Suốt đời ông luôn coi nó là con.
Người cha khác thường ấy, người cha mà Chúa Giêsu đề cập trong Tin mừng hôm nay, là Chúa chúng ta. “Chúa yêu thương ta vô cùng”, Thánh Phaolô đã nói như vậy. Ngài thương ta đến nỗi, ta được gọi là con Thiên Chúa. Không chỉ có vậy, Ngài thương ta ngay khi ta đang là tội nhân, lúc ta còn đang ở trong tình trạng đi hoang, ăn chơi đàng điếm, lúc ta bỏ nhà ra đi. Ngài không chấp tội ta mà chỉ mong ngóng ta trở về.
Chính Chúa, qua Ngôn sứ Isaia đã nói với ta rằng: “Trái tim Chúa thổn thức, ruột gan Chúa bồi hồi cho đến khi chúng ta trở về”. Còn các tác giả thánh vịnh thì bảo: “Chúa chúng ta là người Cha nhân hậu, Ngài chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn không oán hờn mãi mãi. Ngài không cứ tội ta mà xét xử, nhưng một dạ tín thành, một lòng xót thương”.
Ngài thương ta bằng tình thương của một người mẹ, bằng tấm lòng của một người cha. Chính Chúa đã nói với ta điều đó qua miệng Ngôn sứ Hôsê: “Ngài lấy dây ân nghĩa, lấy mối ân tình mà lôi kéo con người; Ngài xử với con người như người mẹ nựng đứa con thơ, nâng niu trên đầu gối, cúi xuống đút cho ăn” (Hs 11, 4).
Chúa của ta là như vậy. Ngài không cứ theo tội ta mà xét xử, nhưng luôn mãi thứ tha. Ngài luôn mong ngóng ta trở về, để được xỏ vào tay ta chiếc nhẫn cưới cứu độ, để được vỗ về, âu yếm cảm thông và để cùng ta chia sẻ bữa tiệc vui Nước Trời. Ngài luôn chờ đợi ta nơi cửa nhà Ngài, để trao cho ta nụ hôn của bình an, nụ hôn của tình phụ tử. Ngài không cần biết và cũng chẳng nhớ ta đã làm gì, đã phạm tội nào, nhưng chỉ biết ta là con, là những người yếu đuối cần được đỡ nâng tha thứ.
Có câu chuyện kể rằng, tại một giáo xứ nọ có một bà cụ đạo đức. Ngày nào, bà cũng đến gặp cha xứ và nói với ngài về một chuyện duy nhất, đó là: “Thưa cha, hôm qua, Chúa đã hiện ra cho con và nói với con rằng: Chúa yêu chúng ta lắm”. Nghe mãi chỉ bấy nhiêu chuyện nên cha xứ cũng cảm thấy phiền, nhưng ngài không biết làm cách nào để cụ không đến nữa. Ngày kia cha xứ nghĩ ra một kế. Sau khi bà cụ kể chuyện Chúa hiện ra xong, ngài liền bảo cụ: “Lần sau, nếu Chúa hiện ra cho cụ, nhờ cụ hỏi Chúa dùm tôi xem: tôi đã phạm tội gì, có nặng lắm không?”.
Hôm sau, rồi hôm sau nữa, qua ba ngày vẫn không thấy cụ tới, cha xứ chắc mẫm bà cụ trúng kế mình, nên lấy làm đắc ý lắm. Sang ngày thứ tư, từ tờ mờ sáng, khi cha xứ đang còn vui với kế sách của mình thì nghe tiếng bà cụ gọi cửa. Nghe tiếng bà gọi, cha xứ đâm hoảng, bởi ngài nghĩ: “Nếu Chúa hiện ra thật và nói cho cụ bà biết tội của mình thì thật là tại hại. Cụ mà biết thì có cả làng biết. Hơn nữa tội mình cũng đâu có vừa”. Nghĩ thế, nhưng cha xứ vẫn mở cửa, bởi ngài cũng nghĩ: “Biết đâu bà cụ lẩm cẩm nên chẳng nhớ gì”.
Thế nhưng, vừa bước vào khỏi cửa bà cụ đã lên tiếng: “Thưa cha mấy ngày qua con bị ốm, nên không vào thăm cha được. Hôm qua Chúa lại hiện ra với con”. Nghe tới đây, tim cha xứ như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Tuy nhiên, ơn Chúa ngài giữ được bình tĩnh, nên hỏi: “Thế bà có nhớ, hôm nọ tôi nhờ bà gì không?” “Dạ thưa cha, con nhớ lắm”. Nghe câu ấy, cha xứ thật sự hốt hoảng, nhưng đã lỡ hỏi rồi, nên ngài hỏi tiếp: “Thế hôm nọ tôi nhờ cụ gì nào?”. Bà cụ trả lời: “Thưa cha nhờ con hỏi Chúa xem cha phạm tội gì, có nặng lắm không”. Nghe tới câu ấy, cha thầm nghĩ: “Đằng nào cụ cũng biết rồi, mà cụ đã biết thì có khi cả xứ biết rồi cũng nên. Thôi mình cũng nên biết để mà ăn năn đền tội. nghĩ thế, ngài mạnh dạn hỏi cụ: “Thế Chúa nói với cụ thế nào?”. “Thưa cha, Chúa đã nói với con rằng, Chúa đã quên hết tội cha xứ rồi”. Cha xứ thở nhẹ nhõm…
Chúa đã quên tội của ta, như đã quên tội của người con hoang đàng. Chúa không chấp tội của ta! Điều Chúa muốn là ta trở về với Ngài, để Ngài có thể săn sóc ta trong ân tình mà Ngài đã luôn dành cho ta. Không trở về thì ta mãi mãi ở xa Chúa. Không trở về, ta sẽ luôn mãi sống trong kiếp đi hoang, mà đã sống trong kiếp đi hoang, thì dù Chúa có quên tội ta, ta vẫn mãi không biết tội mình. Không biết tội mình thì ta không thể nhận được ơn tha thứ của Chúa, ta vẫn là những người con sống bên ngoài nhà cha mình.
Hôm nay, Chúa Nhật 4 Chay, Chúa Nhật hồng giữa mùa tím, Chúa nhật của niềm vui. Chúa muốn ta, đừng như người con cả, ở với Cha mà không hiểu Cha; nhưng hãy vui niềm vui của Chúa, và mang niềm vui ấy đến với mọi người, bằng cách tha thứ cho anh chị em mình.
Cũng vậy, hôm nay Giáo hội đưa ta đến gặp người cha mình, Đấng một lòng xót thương, Đấng một dạ tín thành. Giáo hội muốn ta chiêm ngắm Chúa trong tư cách là người Cha như vậy, để tạ tội với Cha, để xin Cha tha thứ về biết bao lần ta đã đi hoang, đã ăn chơi sa đọa như người con hoang đàng.
Cũng vậy, hôm nay Giáo hội muốn ta ý thức rằng: cho dù chúng ta tội lỗi đến đâu, ta đừng bao giờ thất vọng, bởi vì Thiên Chúa Cha luôn theo đuổi ta. Ngài không chấp tội ta, miễn là ta sẵn sàng trở về. Vì thế, ta hãy tin tưởng vào lòng xót thương của Chúa và hãy luôn tâm niệm điều này:Ta có một người Cha luôn bao dung, luôn luôn trông chờ để nói lời tha thứ, để ban ơn hòa giải cho tất cả những đứa con của mình, cho dù, đó là đứa con đi hoang, cho dù đó là người anh cả, cả đời ở với cha, nhưng thiếu sự cảm thông, thiếu niềm thương cảm; ở với cha nhưng hồn xa cha; ở với Cha nhưng không hiểu được lòng tốt của cha mình; Ở với cha, nhưng lòng lại đi hoang.
Mùa chay là mùa để cảm nhận tình cha, người cha nhân hậu. Thiên Chúa là người Cha, người Cha nhân hậu. Thiên Chúa là người Cha, tình Ngài bao la. Người đợi ta nơi ngưỡng cửa nhà người. Ngài ngóng chờ ta từng ngày để trao cho ta nụ hôn bình an. Thành ra, Chúa chờ ta chứ không phải là ta chờ Người.
Lạy Chúa, con biết Chúa thương con. Chúa luôn muốn cho con hạnh phúc. Nhưng, Chúa biết đấy, không phải lúc nào con cũng cảm nghiệm được tình yêu của Chúa, không phải lúc nào con cũng là đứa con ngoan, đứa con hiếu thảo. Đã nhiều lần, con đã bỏ ra đi, đã nhiều lần con chối từ tình yêu của Chúa. Hôm nay, con xin Chúa cho con cảm nghiệm được tình thương của Chúa, để mau mắn trở về, để được sống mãi trong vòng tay nhân từ của Chúa.
Nam Phong