TỐI SÁNG- Suy niệm Chúa Nhật IV Mùa Chay A

0
37

2332017153819906Tối sáng thuờng được áp dụng chỉ thời gian, ngày và đêm. Tối sáng cũng được nói về tinh thần, về trí năng của một ai đó, tối trí, sáng trí. Tối sáng còn được áp dụng chỉ về thị giác, một trong năm giác quan con người. Người có hai mắt hoặc thấy hoặc không thấy gì. Mắt thấy gọi là mắt sáng, mắt không thấy gọi là mắt tối vì bị mù. Người mù luôn sống trong tăm tối.

CN 4 MC A hôm nay cho con người dấu chỉ mang lại niềm hân hoan tràn hy vọng: ĐGS là ánh sáng và là sự sống dựa vào phép lạ Người chữa mắt người mù từ bình sinh. Người mù được chữa lành mắt thể lý được thấy ánh sáng, cũng ám chỉ đến việc chữa lành đôi mắt tâm hồn: mắt đức tin để nhìn thấy đâu là nguồn sáng, sự sống!

Câu chuyện chữa mắt người mù thật đơn giản, nhưng đã kéo theo bao hệ lụy xem ra rất phiền toái khi mắt kẻ mù được sáng, được nhìn thấy.

ĐGS nhìn thấy người mù trên con đường Người đi qua. Các môn đệ hỏi Người về nguyên nhân mà một người sinh ra có đôi mắt bị mù: ‘Bởi tội y hay cha mẹ y? Người cho các ông biết: ‘Chuyện đó xảy ra là để việc của TC được tỏ hiện nơi anh’ (c.3b).

Câu chuyện chữa mắt người mù, Gioan ghi lại giản dị qua vài cử chỉ: Người nhổ nước miếng trên đất hòa thành bùn và đắp lên mắt anh, sai anh đi đến hồ Silôê rửa (Silôê có nghĩa: người được sai). Anh đi rửa và mắt anh được sáng. Câu chuyện chữa mắt người mù vừa là một phép lạ sự thật lại mang đầy tính biểu tượng như những gì mà ĐGS trả lời sau câu hỏi của các môn đệ.

Ra đi rửa mắt, mắt anh sáng, anh quay trở lại, ĐGS đã rời khỏi nơi ấy, nên anh không thể biết Người là ai!

Mọi người, trong số những người thân, bạn bè, nhìn thấy anh, việc sáng mắt của anh làm cho bao người ngạc nhiên. Họ bàn luận, chia rẽ nhau về chính danh con người anh, về cơ sự cũng như ‘ai là người’ làm cho mắt anh được sáng?

Một người được lành bệnh, sự thường, trong tình người, sẻ có được sự chia sẻ trong vui mừng cảm thông đầy yêu thương, đáng lẽ phải là chuyện như thế, đàng này không ai làm như vậy, mà người ta lôi anh đến gặp những người Pharisêu. Những người này tra hỏi anh. Ở đây, với anh, vì lòng đầy ấp vui mừng, nên đã bất chấp mọi hiểm nguy vì nghi kỵ hiềm thù của người Do Thái, anh tuyên nhận thẳng thừng, trước mọi câu hỏi dò xét, dựa vào niềm tin của chính mình:  ‘Người là một vị ngôn sứ(c.17).

Cha mẹ anh cũng bị người Do Thái mời đến tra hỏi. Thái độ của họ giờ đây tỏ ra dè chừng, tránh né những gì liên lụy đến từ đứa con của mình được sáng mắt vì họ sợ người Do Thái với lệnh: ‘Trục xuất những ai tuyên xưng ĐGS là Đấng Kitô’ (c.22), Gioan ám chỉ một lệnh đồng nghĩa với vạ dứt phép thông công ở thời đầu của GH sơ khai.

Cuối cùng, sau những phiền lụy vì được sáng mắt và vì lời tuyên xưng đức tin, anh bị trục xuất ra khỏi hội đường. ĐGS am hiểu, quay lại gặp anh. Người muốn để anh được nhìn thấy Người, Đấng là Ánh Sáng, và là sự sống. Gặp nhau, Người hỏi anh: ‘Anh có tin vào Con Người không’? (c.35). Anh thưa: ‘Thưa Ngài, tôi tin(c.38).

Đức ‘tin’ của anh vào ĐGS là nguyên nhân gây bao phiền toái. Điều đó, rất phù hợp với những gì như ĐGS đã báo trước: ‘Phần anh em, anh em hãy coi chừng! Người ta sẽ nộp anh em cho các hội đồng và hội đường vì Thầy…để làm chứng cho họ được biết’ (Mc.13,19). Cùng  một nội dung, Matthêu cũng ghi nhận: ‘Anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết’ (Mt.10,18).

Nhìn chung phép lạ chữa người mù từ bình sinh là một dấu lạ lớn, nhưng vẫn không làm nao núng xoay hướng người Pharisêu. Họ vẫn cứ khư khư không tin mà còn căm thù ĐGS hơn nữa. Không sao sửa đổi họ được, Người tỏ uy quyền một thẩm phán xét xử họ. Người nói: ‘Tôi đến thế gian này chính là để xét xử cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui ‘ (c.39). Nghe điều này Người Pharisêu càng căm phẫn vì ĐGS đã liệt họ vào những kẻ tội lỗi. Tội của họ là những người có mắt mà ra đui vì không thấy những điều rất thiết thực chạm đến đáy mắt và trí khôn quan sát, đánh giá và hiểu biết để chính mình đón nhận.  

Trong cõi nhân gian, không thiếu những người đã thuộc về hạng Pharisêu từ bao dời theo kiểu thức ‘quan sát cứ quan sát, phán đoán cứ phán đoán, đón nhận thì không’ đến nỗi chưa một lần hay biết hoăc mình đúng hoặc mình sai để mau lẹ đổi hướng. Họ vẫn cứ tự tại tâm đắc về hành vi và đường lối ứng xử của mình khiến cho bao người lâm vào hệ lụy cùng khốn vì họ. Con mắt trí khôn họ mù, mà nếu có sáng chỉ để biết và nhìn thấy mối hiềm thù ghen ghét nặng ký trong họ đang dần tăng trọng nhằm triệt hạ bất kỳ ai là đối thủ mà tự họ cho là kẻ phá luật ngày sabbat, hay gieo rắc những ý tưởng rao giảng mới lạ khác họ.

Tâm ý ĐGS, vì là Đấng nhân lành, muốn giao hòa mọi người lại với TC, trở về trong sự thật đầy tinh thần và chân lý để sống nhân cách, phẩm giá, cùng đích làm người, trở nên những người con thiện hảo của tạo hóa dựng nên, được mời gọi sống hoàn thiện theo niềm tin vào Con TC làm người để cùng hưởng Nước Trời, Thiên giới hạnh phúc đã được hứa ban.

Với kitô hữu hôm nay, Người mù sáng mắt nên dấu chỉ của ơn TC ban. Người mù được sáng là bằng chứng cho một niềm tin bất khuất về ĐGS Con TC làm người. Người là ánh sáng của trần gian, là sự sống của mọi người, ơn ban cao vời, TC ban Con Một của Ngài vì yêu thương, để lôi kéo mọi người xây dựng và cũng cố  niềm tin vào Người, nguồn mạch lấp đầy mọi khát vọng nơi mỗi con người là HẠNH PHÚC.

Lạy Chúa Cha từ ái, lạy Chúa Thánh Thần nguồn ánh sáng thật, xin cho con đủ can đảm để có thể mạnh dạn nói và nói thay cho nhiều người không dám nói: CON TIN, một đức tin bất khuất vào Con duy nhất của Ngài đã được CTT luôn đồng hành và hướng dẫn.

Lm Uyen Nguyen