Suy niệm hằng ngày_Tuần XVIII Thường Niên A

0
47

Suy niệm hằng ngày_Tuần XVIII Thường Niên A


Thứ Hai Tuần XVIII Thường Niên

(Ds 11,4b-15; Mt 14,13-21)

Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân

Ds 11,4-15: Một mình tôi không mang nổi dân này.

Tv 81,2: Hãy reo mừng Thiên Chúa là Đấng phù trợ chúng ta.

Mt 14,13-21: Mọi người đều ăn no.

Môsê cảm thấy mệt mỏi về những lời phàn nàn của người dân về điều kiện sống của họ trong chuyến đi từ Ai Cập. Họ chỉ có thể nhớ đến những ngọt ngào và nhẹ nhàng về cuộc sống trước đây – một vùng đất có cá, dưa chuột, dưa gang, rau cải, hành tỏi. Nhưng sau đó là chế độ nô lệ và áp bức mà từ đó họ đã cầu nguyện để được giải thoát trong hàng trăm năm. Họ “đói kém” nhưng được ăn ngon hàng ngày với thức ăn đến từ chính tay Chúa.

Rất nhiều người ở nhiều nơi trên thế giới không đủ ăn ngày nay. Tuy nhiên, con người không sống chỉ nhờ cơm bánh, họ cần bình an và yêu thương. Họ khao khát công lý và sự tôn trọng. Họ cần Chúa. Chúa Giêsu đã rút lui để có giờ cầu nguyện và suy tư, nhưng những người túng thiếu vẫn tìm thấy Ngài. Thay vì bảo họ về nhà và cho mình một chút không gian, Chúa Giêsu thương xót họ và đáp ứng nhu cầu của họ.

Chúng ta là những Kitô hữu và là môn đệ của Chúa Giêsu. Ta không thể thờ ơ với những cơn đói khát về thể chất hay tâm hồn. Vì Chúa Giêsu đã nói: “Hãy cho họ ăn.” Khi làm như vậy, Ngài cho phép các môn đệ tham gia vào phép lạ đó để cảm nhận điều kỳ diệu, và tăng trưởng đức tin của họ. “Hãy reo mừng Thiên Chúa là Đấng phù trợ chúng ta.”

Lm. FX. Nguyễn Văn Thượng

Đức Giê-su bảo: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn.” (Mt 14, 16)

Sự vâng lời của các môn đệ rất quan trọng đối với phép lạ này cũng như sự vâng lời của chúng ta rất quan trọng đối với vương quốc ngày nay. Đức Ki-tô nhận sự đóng góp của chúng ta, dù khiêm tốn đến đâu, và làm cho nó đầy đủ. Đức Ki-tô lấy những gì chúng ta phải cho, dù khiêm tốn đến đâu, và làm cho nó phong phú đủ đầy. Khi một góa phụ cầu xin Ê-li-sê giúp đỡ, Ê-li-sê hỏi: “Bà có gì trong nhà?” Cô ấy trả lời rằng cô ấy không có gì ngoài một bình dầu. Ê-li-sê bảo cô mượn những chiếc bình của những người hàng xóm và đổ dầu từ chiếc bình của cô ấy sang những chiếc bình khác. Khi cô ấy vâng lời, thì một ít dầu của cô ấy trở nên đủ để đổ đầy tất cả các bình. Ê-li-sê nói: “Hãy đi bán dầu mà trả nợ; Phần còn lại, ngươi và các con trai ngươi dùng” (2 Vua 4,7). Khi ban phước lành, Đức Chúa thường sử dụng những gì chúng ta có trong tay.

Ngày nay, mệnh lệnh “ anh em hãy cho họ ăn” tiếp tục thách đố tín hữu Đức Ki-tô. Chúng ta sống trong một thế giới đầy những người đói khát và cầu xin Chúa Giê-su làm điều gì đó. Giáo Hội thường vượt qua thử thách, cung cấp thực phẩm, quần áo, chỗ ở và chăm sóc y tế cho những người ở những nơi xa xôi trên thế giới.

Các môn đệ đáp lại Chúa Giê-su: “Ở đây chúng con chỉ có năm cái bánh và hai con cá” (c. 17). Các môn đệ nhấn mạnh không phải những gì họ có, mà là những gì họ không có. Họ không nhìn thấy những khả năng, mà là những vấn đề. Đánh giá của họ là đúng trên thực trạng. Các môn đệ có năm chiếc bánh và hai con cá—bảy món—đủ cho một gia đình nhỏ—nhưng đám đông kéo dài đến tận chân trời. Họ không chỉ đánh giá đúng nguồn cung cấp thực phẩm mà còn có lý khi trình lên Chúa Giê-su. Rõ ràng là Người cần một ai đó để hợp sức — để khiến Người tỉnh táo lại — để khiến Người đối mặt với thực tế, và đề xướng có lý: “Hãy giải tán đám đông đi, để họ có thể vào các làng và mua thức ăn cho mình.” Hãy hành động ngay bây giờ, trước khi tình huống này trở nên tồi tệ. Kết thúc một ngày với một lưu ý tích cực.

Giống như một thế hệ trước đã nghi ngờ Đức Chúa, nói rằng: “liệu Chúa Trời có thể dọn gì cho ta ăn?” (Tv 78,19), giờ đây các môn đệ của Chúa Giê-su nghi ngờ khả năng cung cấp thức ăn cho đám đông đang đói của Người.

Giống như các môn đệ, chúng ta luôn bị cám dỗ rằng chúng ta không có gì để cung cấp khi đối mặt với nhu cầu quá lớn. Hàng triệu người đang đói, và chúng ta không có gì để cung cấp ngoại trừ một hộp nhỏ đồ hộp. Hàng triệu người bị nhiễm HIV và chúng ta không có gì để cung cấp ngoại trừ một vài đồng quyên góp. Hàng triệu người mất nhà cửa và sinh kế vì chiến tranh hoặc thiên tai, và chúng ta không có gì để cung cấp ngoại trừ những lời cầu nguyện và một vài túi thực phẩm, vài chiếc chăn.

Với năm cái bánh đã được nhân lên bằng tình thương của Chúa Giê-su cộng với niềm tin và lòng vâng phục của các môn đệ. Chúa dạy chúng ta là hãy vâng lời Ngài mà thực hiện điều răn yêu thương. Yêu thương là chia sẻ.

Lm. Tôma Lê Duy Khang

Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Có một vấn đề đặt ra với mỗi người chúng ta là điều gì làm nên phép lạ? Thưa đó chính là lòng thương xót của Chúa dành cho dân chúng và sự đóng góp của con người nên phép lạ đã xảy ra, nhưng chúng ta phải hiểu nguyên nhân chính vẫn là Chúa, Chúa là tác nhân chủ động.

Đọc kỹ Tin mừng chúng ta thấy rất rõ về điều này, đó là khi Chúa Giêsu thấy đám đông dân chúng đi theo mình, thì Chúa thương xót họ, và chữa lành nhiều bệnh tật cho họ. Chiều đến, các môn đệ đến thưa với Chúa Giêsu: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn.” Đức Giê-su bảo: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn.” Chúa Giêsu luôn luôn là tác nhân chủ động.

Ngày nay chúng ta có thể làm phép lạ hay không? Chúng ta không thể làm phép lạ như Chúa đã làm, nhưng khi chúng ta quan tâm đến người khác thì phép lạ sẽ xảy ra, nghĩa là chính Chúa sẽ làm phép lạ.

Chuyện kể về một người phụ nữ mù bắt taxi tới một tòa nhà nọ. Lúc đến nơi, đồng hồ taxi hiển thị số tiền là 100 ngàn đồng.

Tài xế taxi dẫn cô vào chỗ an toàn rồi nói với cô rằng: “Tôi không thu tiền của cô, bởi vì so với cô thì việc kiếm tiền của tôi chắc dễ dàng hơn.”

Cũng vào lúc đó, từ trong khu cư xá, một người đàn ông có dáng vẻ lịch thiệp tiến lại rồi bước lên chính chiếc xe taxi đó rồi đi.

Trên đường đi, hai người đàn ông vui vẻ chuyện trò cùng nhau. Khi tới nơi xuống xe, đồng hồ báo cũng hiển thị số tiền là 100 ngàn đồng nhưng người đàn ông này đã lấy ra số tiền 200 ngàn và nói với người lái taxi rằng: “Tiền này bao gồm cả số tiền của người phụ nữ lúc nãy. Tôi cũng không phải là vĩ đại gì, nhưng chắc là việc kiếm tiền của tôi cũng dễ dàng hơn cậu một chút, hy vọng cậu có thể tiếp tục làm việc tốt!”

Chúng ta thấy, anh tài xế taxi cảm thấy bản thân mình may mắn hơn so với hoàn cảnh của người phụ nữ mù, anh tài xế từ chối nhận tiền, mặc dù đồng lương mà anh kiếm được mỗi tháng không nhiều. Cuối cùng, anh được một ông chủ giàu có trả lại số tiền đó, bởi người đàn ông ấy muốn nhắn nhủ rằng: “Làm việc tốt không cần báo đáp, chỉ cần bạn hứa với tôi rằng nếu gặp người khác khó khăn hãy hết lòng giúp đỡ họ.”

Nên chúng ta cứ làm việc tốt, cứ quan tâm thì phép lạ sẽ xảy ra trong cuộc đời này, bởi vì trong cuộc đời này không thiếu những tấm lòng biết quan tâm.

Bên cạnh đó, chúng ta cần phải ý thức rằng ngoài việc quan tâm làm nên phép lạ, thì việc chúng ta bất đồng xâu xé nhau là đang trúng kế của sự dữ.

Một hôm cậu bé hỏi thầy giáo: “Thưa thầy sao cái ác luôn luôn thắng?” Thầy giáo trả lời: “Bởi vì điều tốt đẹp không đoàn kết.” Để thầy giải thích rõ cho trò hay dưới dạng một câu chuyện:

Ngày xưa có hai vị vua. Cả hai đều có mối quan tâm về công lý, hòa bình và sự tôn trọng chân thành với nhau, nhưng họ không có quan hệ thương mại lành mạnh và thường tuyên bố chủ quyền lãnh thổ với nhau, do đó hai nước xảy ra thường xuyên các cuộc đụng độ nhỏ.

Sau một vài năm, một vị vua ngoại quốc quyết định xâm chiếm hai nước này. Ông cùng với các bộ trưởng của ông phân tích các điều kiện và phát hiện ra rằng không thể đối mặt với họ một cách công khai nên quyết định lợi dụng mối quan hệ xấu giữa hai nước này.

Vua nước ngoài đứng về phía vị vua đầu tiên và ngỏ ý giúp đỡ để đánh bại đối thủ của ông. Vị vua đầu tiên sẵn sàng chấp nhận đề nghị của ông và tuyên chiến với kẻ thù.

Hàng ngàn người tham gia cuộc chiến đã chết và hàng trăm người bị tàn sát trên chiến trường nhưng chiến tranh không tới hồi kết. Đúng như kế hoạch, lợi dụng hai nước xâu xé và đang suy yếu, nhà vua nước ngoài ra lệnh một cuộc tấn công bất ngờ vào quân đội của vị vua thứ hai, thay vì chia sẻ lãnh thổ mới với vị vua thứ nhất, ông đã bắt và xử tử cả hai vị vua và tuyên bố mình là quốc vương tối cao.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết quan tâm nhau, đừng chia rẽ nhau, có như thế phép lạ sẽ xảy ra trong cuộc đời này. Amen.

 Thứ Ba Tuần XVIII Thường Niên
Thánh Đaminh, linh mục. Lễ nhớ

(Ds 12,1-13; Mt 14,22-36)

Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân

Ds 12,1-13: Môsê không như tiên tri khác; sao các ngươi dám nói xấu ông ta?

Tv 51,3: Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, vì con đã phạm tội.

Mt 14,22-36: Xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy.

Aaron và Miriam bị khiển trách vì thiếu niềm tin vào ơn tiên tri và tài lãnh đạo mà Chúa ban cho Môsê. Phúc âm hôm nay trình bày một tình huống liên quan đến đức tin. Chúa Giêsu cho các môn đệ xuống thuyền và đi trước Ngài để sang bờ bên kia; và sau khi đám đông đã ăn no, Ngài đã giải tán họ. Và rồi Ngài tự mình lên núi để cầu nguyện. Không có Thầy bên cạnh, các môn đệ gặp khó khăn khi đối mặt với sóng gió. Đó là lúc Chúa Giêsu đang đi trên mặt nước để đến với họ .

Các môn đệ vô cùng kinh hãi khi nhìn thấy Ngài. Người ta thường không đi bộ trên mặt nước, vì vậy họ nghĩ rằng họ đang nhìn thấy ma. Nhưng họ đã nhầm. Những gì họ đang nhìn không phải là ảo ảnh, mà là Chúa. Ngài bảo họ đừng sợ hãi. Thầy đây. Đừng sợ, Chúa nói. Tính biểu tượng của câu chuyện Phúc âm rất mạnh mẽ. Nước là tượng trưng cho cái ác, nó nuốt chửng mọi sự. Chúa Giêsu quyền năng hơn, thống trị mọi sự. Ngài mời gọi môn đệ và toàn thể Giáo hội hãy mạnh dạn đi theo Ngài. Niềm tin tự nó không an toàn. Ta phải vượt qua những giông tố của cuộc đời giữa niềm tin và nỗi sợ hãi. Chúa vẫn ở đó, dù ta không thể thấy được.

Lm. FX. Nguyễn Văn Thượng

“Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.”

Giống như những ngọn đèn, đời sống các môn đệ có một mục đích. Chúng ta phải sống sao cho những việc lành của chúng ta tôn vinh Thiên Chúa.

Việc lành phù hợp với nguyên tắc yêu thương của Ki-tô hữu. Nếu chúng ta yêu thương nhau, tình yêu của chúng ta sẽ được thể hiện trong những hành động thương xót. Những hành động như thế là những cách rất hữu hiệu để tôn vinh Đức Chúa. Những người từ chối đến nhà thờ và những lời dạy của Hội Thánh cũng không thể dễ dàng bác bỏ lời chứng của những người cống hiến hết mình để phục vụ người khác. Sự phục vụ hy sinh kéo người ta đến với Đấng Ki-tô. Mẹ Teresa là một ví dụ điển hình, nhưng mỗi cộng đồng đều có những vị thánh cống hiến hết mình một cách thầm lặng và mạnh mẽ để phục vụ những người cần giúp đỡ. Họ thực sự là ánh sáng của thế giới.

Đấng Ki-tô muốn mỗi người chúng ta là một ánh sáng—một số nhỏ hơn và một số lớn hơn, nhưng tất cả đều tỏa sáng rực rỡ—một nghìn điểm sáng—một triệu điểm—một tỷ! Nếu mọi Ki-tô hữu đều bật đèn lên, đây sẽ là một thế giới rất khác!

Mục đích của tất cả những việc lành này không phải là để đạt được danh dự cá nhân (x. Mt 6,1-8), nhưng thay vào đó là để “tôn vinh Cha anh em ở trên trời.” Mọi điều trong sứ vụ của chúng ta cần phải hướng về Cha trên trời.

Lm. Tôma Lê Duy Khang

Tin mừng hôm nay có một chi tiết mà chúng ta cần chú ý: một người được Chúa Giêsu kêu gọi: “Anh hãy theo tôi”, Người ấy thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã”, và Chúa Giêsu bảo anh ta: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo triều đại Thiên Chúa.” Tại sao lại để kẻ chết chôn kẻ chết, với cái nhìn bình thường thì làm sao kẻ chết có thể chôn kẻ chết được?

Trong khảo luận của thánh Âutinh, giám mục, về Tin mừng Gioan được trích đọc trong bài đọc 2 giờ kinh sách của Chúa nhật V mùa chay A, thì thánh Âutinh cũng nói đến điều mà chúng ta đang nói, thánh nhân nói: “Đang có một kẻ chết phải chôn, và cũng có những người chết sắp đi chôn kẻ chết ấy: kẻ thì chết về thể xác, nhưng những người kia thì chết về phần hồn. Bởi đâu mà chết về phần hồn? Vì không có lòng tin. Bởi đâu mà chết vì thể xác? Vì không có linh hồn. Như vậy, lòng tin là linh hồn, là sự sống cho linh hồn chúng ta.

Theo thánh Âutinh chú giải, sở dĩ Chúa Giêsu nói hãy để kẻ chết chôn kẻ chết là những người chết về mặt linh hồn chôn những người chết về mặt thân xác, hay những người chết về mặt linh hồn chôn người chết về cả mặt thể xác lẫn mặt linh hồn.

Như vậy, đối với Chúa Giêsu là phải rao giảng về Nước Thiên Chúa đã đến gần, đó mới là điều cần thiết để cứu chính mình, cũng như cứu người khác khỏi chết về phần linh hồn, và nếu có chết về phần thể xác thì chỉ chết trong một thời gian thôi, vì linh hồn đã có sự sống rồi, trong ngày sau hết khi thân xác sống lại sẽ không còn chết nữa.

Hôm nay là lễ thánh Đaminh, linh đạo dòng của ngài là giảng thuyết, nên dòng Đaminh được gọi là dòng của anh em giảng thuyết.

Vậy để có thể giảng thuyết tốt thì phải làm thế nào? Thưa phải có lòng khao khát hiểu biết, không phải hiểu biết về các kiến thức thông tin ngoài đời, mà là sự hiểu biết thuộc về tầm cao, nghĩa là phải có lòng khao khát chân lý, khao khát Chúa.

Chúng ta hãy nhớ lại trong Cựu Ước có mẫu gương của vua Salomon, khi Salômn đi Ghipôn ông đã gặp một giấc mơ, Thiên Chúa phán với ông: “Ngươi cứ xin đi, Ta sẽ ban cho.” Vậy Vua Salomon đã xin gì? Ông chỉ xin Thiên Chúa: “Xin ban cho tôi tớ Chúa đây, một tâm hồn biết lắng nghe, để cai trị dân Chúa và phân biệt phải trái; chẳng vậy, nào ai có đủ sức cai trị dân Chúa, một dân quan trọng như thế?”

Chúa hài lòng vì vua Salômôn đã xin điều đó. Thiên Chúa phán với vua: “Bởi vì ngươi đã xin điều đó, ngươi đã không xin cho được sống lâu, hay được của cải, cũng không xin cho kẻ thù ngươi phải chết, nhưng đã xin cho được tài phân biệt để xét xử, thì này, Ta làm theo như lời ngươi: Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi, chẳng một ai sánh bằng, và sau ngươi, cũng chẳng có ai bì kịp. Cả điều ngươi không xin, Ta cũng sẽ ban cho ngươi: giàu có, vinh quang, đến nỗi suốt đời ngươi không có ai trong các vua được như ngươi. Và nếu ngươi bước theo các đường lối của Ta, là tuân giữ các giới răn và mệnh lệnh của Ta, như Đavít thân phụ ngươi, thì Ta sẽ kéo dài ngày đời của ngươi” (1V 3, 4-15).

Và thánh Đaminh là con người như thế, luôn khao khát chân lý, luôn tìm kiếm sự khôn ngoan không phải chỉ để cho mình, nhưng là để phục vụ Chúa, là để đem nhiều linh hồn về với Chúa.

Xin cho mỗi người chúng ta biết noi gương thánh nhân, ham học hỏi, ham tìm kiếm chân lý để lo cho phần rỗi linh hồn của chúng ta, cũng như qua đó giúp cho người khác hiểu về Chúa để cứu linh hồn của họ, như thánh Đaminh và các môn đệ của Ngài đã làm. Amen.

Thứ Tư Tuần XVIII Thường Niên
(Ds 13,1-2.25-14,1.26-29.34-35; Mt 15,21-28)

.Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân

Ds 13,1-2.25-14,1.26-29.34-35: Đất ngon lành họ đã không thèm (Tv 77,24).

Tv 106:4: Lạy Chúa, vì tình thương đối với dân Chúa, xin nhớ đến chúng con.

Mt 15,21-28: Này bà, bà có lòng mạnh tin.

Khi cuộc hành trình đến miền đất hứa tiếp tục, dân Israel càu nhàu và phàn nàn về việc thiếu nước và lương thực. Thiên Chúa đã đến với họ, khi Người chứng tỏ hết lần này đến lần khác rằng Người ở với họ và Người yêu thương họ. Khi người Do Thái nổi dậy trong sa mạc, họ phản đối những đòi hỏi của giao ước và những rủi ro mà họ phải chịu để biến những điều Chúa muốn thành hiện thực. Chính vì thái độ đó, họ đã chịu khổ sở lâu dài.

Tin Mừng thu hút sự chú ý đến bà mẹ người Canaan. Bà xin ơn Chúa cho con gái mình bằng cách van nài khẩn thiết Chúa Giêsu Con vua Đavít: “Lạy Ngài, Con vua Đavít, xin thương xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm.” Người phụ nữ Canaan nhận ra quyền năng của Chúa Giêsu, một quyền năng có thể tác động đến cuộc đời của con gái bà. Mặc dù không thành công trong lần xin đầu tiên nhưng bà vẫn không bỏ cuộc. Đức tin không gì lay chuyển được của bà đã khiến Chúa Giêsu cảm động. Ngài ngạc nhiên: “Này bà, bà có lòng mạnh tin,” và ban cho bà điều mong ước. Các câu chuyện hôm nay giúp ta quy về Chúa, Đấng yêu thương và sẽ luôn ở với chúng ta, nếu như ta biết trung thành, tin tưởng, cậy trông và phó thác vào Chúa. Lạy Chúa, xin nhớ đến chúng con.

Lm. FX. Nguyễn Văn Thượng

Bấy giờ Đức Giê-su đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.

Người phụ nữ Canaan này can đảm trình qua: “Lạy Chúa, vâng, nhưng con chó cũng được ăn những miếng vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Chúng ta gần như có thể nhìn thấy tia sáng trong mắt cô ấy khi cô ấy cảm nhận được sức mạnh trong lời nhận xét của mình. Trong khi thừa nhận quyền tối thượng của Chúa Giê-su và vị trí khiêm tốn của mình, cô ấy khẳng định những đặc quyền hợp pháp của mình, nếu khiêm tốn. Cô không chỉ tin rằng Chúa Giê-su có thể chữa lành cho con gái mình; cô ấy tin rằng Người sẽ chữa lành hiện trạng cho con gái cô ấy. Và cô ấy đã tin đúng!

Chúa Giêsu vui mừng đáp lại: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! bà muốn sao sẽ được như vậy”. Chúa Giê-su thấy người phụ nữ đầy đức tin này là một niềm vui! Người thích thú khi để cô ấy xác quyết niềm hy vọng tuyệt đối – một sự tương phản thực sự đáng chú ý với những người lãnh đạo giáo quyền và dân sự đầy quyền lực hết lần này đến lần khác không làm được như vậy.

Người đàn bà xứ Canaan đã vượt qua được thử thách mà Chúa đưa ra, để bày tỏ lòng tin chân thành vào Chúa và được Người khen ngợi. Còn chúng ta thì sao? Trong mọi thử thách, đau thương của cuộc đời, chúng ta có vượt qua được không?

 Lm. Tôma Lê Duy Khang

Tin mừng hôm nay trình bày việc Chúa Giêsu chữa lành con của một người phụ nữ xứ Canaan bị quỷ ám. Nhưng chúng ta thấy, để có thể được chữa lành thì không dễ dàng,  người phụ nữ này bị thử thách đức tin có thể nói là vượt quá sức chịu đựng, vì nó đụng chạm đến chính con người của bà: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” Nhưng tại sao Chúa Giêsu lại thử thách bà như vậy, thử thách xem ra vượt quá sức chịu đựng con người?

Tôi có đọc một bài viết mang tên: Khi Bạn Bố Thí Cho Người Ta, Nghĩa Là Bạn Đang Phủ Định Nhân Phẩm Và Tước Đoạt Số Phận Của Họ.

Nhiều năm trước ở vùng núi Smoky, vài con lợn nuôi đã xổng chuồng. Qua nhiều thế hệ, những con lợn này dần trở nên hung tợn hơn. Bởi chúng rất nguy hiểm, cho nên người dân địa phương quyết định cần phải trừ khử chúng, và họ thuê những người thợ săn làm việc đó. Nhưng những con lợn này cực kỳ thông minh và biết cách lẩn trốn những người thợ săn.

Ngày nọ, có một người đàn ông đứng tuổi xuất hiện ở ngôi làng nằm trên vách núi cao nhất. Ông có một chiếc xe lừa chở theo đống gỗ phía sau và một ít ngũ cốc. Ông thông báo với những người hiếu kỳ đứng vây quanh ông rằng ông sẽ lên núi bắt lũ lợn. Họ cười vào mặt ông, nhưng ông chỉ nói: “Đừng lo, tôi sẽ quay lại và cho mọi người biết nơi tôi đã bẫy đám lợn.” Và đúng khoảng ba tuần sau, ông xuống núi và nói cho họ biết nơi họ có thể tìm thấy tất cả những con lợn là ở trong một khu vực được quây bởi hàng rào.

“Trời ơi, làm thế nào mà ông lại bắt được chúng vậy?” Họ hỏi.

“À, việc đầu tiên tôi làm chỉ đơn giản là rải đống gỗ xuống đất. Sau đó tôi rải một ít ngũ cốc trên mặt đất. Con lợn rừng già – con đầu đàn – đã quan sát tất cả những hành động này từ bìa rừng, rồi nó dẫn lũ lợn nái cùng lợn con chui ra cùng mình và đánh hơi xung quanh. Phải mất vài tiếng đồng hồ trước khi chúng cảm thấy yên tâm và thử ăn một miếng ngũ cốc, nhưng ngũ cốc vẫn còn ở đó và rất ngon, lại miễn phí cho nên chúng đã ăn hết.”

Ông tiếp tục kể: “Ngày hôm sau, tôi quay lại và đào bốn cái lỗ để chôn cọc. Tôi chôn mỗi cái cọc vào một lỗ, rồi đổ thêm ngũ cốc vào ngay chính giữa. Lúc đầu chúng vẫn còn nghi ngờ, nhưng rồi ngũ cốc vẫn còn nguyên ở đó như trước. Trong khoảng hai tuần, tôi dựng hàng rào dần dần và làm cửa bẫy. Sau đó, tôi rải rất nhiều ngũ cốc bên trong khu vực được quây bằng hàng rào đó, và đảm bảo mồi nhử phải đủ nhiều để lũ lợn cảm thấy chúng có thể ăn mà chẳng mất gì, và một bữa trưa miễn phí đã giúp tôi bắt được chúng. Khi chúng chui vào thì tôi sập cửa bẫy xuống. Chúng bị mắc bẫy.”

Câu chuyện này cho chúng ta biết rất nhiều điều về công việc và cuộc sống. Khi khiến một con vật hoang dã phải phụ thuộc vào con người để có thức ăn, bạn sẽ làm mất khả năng tự kiếm ăn của nó, và con vật đó sẽ gặp rắc rối.

Và có một câu nói nổi tiếng như thế này: Khi bạn cho ai đó một con cá thì người đó chỉ đủ ăn trong ngày hôm đó. Nhưng nếu bạn dạy họ câu cá, nghĩa là bạn buộc họ phải làm việc để kiếm ăn, thì họ có thể tự kiếm ăn cả đời. Khi bạn bố thí cho người ta, nghĩa là bạn đang phủ định nhân phẩm và tước đoạt số phận của họ. Chúng ta cần làm việc để tự trang trải cuộc sống, và khi làm như vậy, chúng ta sẽ tự gặt hái được những thành quả từ nỗ lực của chính mình.

Cũng vậy, sở dĩ Chúa Giêsu thử thách đức tin của người phụ nữ, là muốn cho bà biết rằng, không phải chỉ tin Chúa khi Chúa chữa lành cho con bà, hay khi có chuyện gì mới chạy đến với Chúa, nói cách khác không phải tin Chúa vì nhu cầu, vì cái bụng, mà phải tin Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời của bà, Chúa muốn giúp cho bà có được đức tin bền vững như thế.

Xin Chúa cho chúng ta cũng tin vào Chúa như thế, và giúp cho người ta cũng có đức tin như vậy, chứ không phải tin Chúa vì cái bụng, tin Chúa vì nhu cầu, khi cần mới đến, khi không cần thì không đến. Amen.

 Thứ Năm Tuần XVIII Thường Niên
Thánh Laurensô, phó tế, tử đạo. Lễ kính

(2Cr 9,6-10; Ga 12,24-26)

Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân

2 Cr 9,6-10: Thiên Chúa yêu thương kẻ cho cách vui lòng.

Tv 112,5: Phúc đức cho người biết xót thương và cho vay.

Ga 12,24-26: Ai phụng sự Ta thì Cha Ta sẽ tôn vinh nó.

Giáo hội kính Thánh Lôrensô, tử đạo. Thánh Phaolô nói rằng “Thiên Chúa yêu thương kẻ cho cách vui lòng.” Thánh Lôrensô quản lý hàng hóa và phục vụ nhu cầu của trẻ mồ côi, góa phụ và người nghèo nói chung. Sau khi hoàng đế ra lệnh xử tử tất cả các giám mục, linh mục và phó tế, ông đã giết Giáo hoàng nhưng tha cho Lôrensô vì cho rằng Lôrensô có thể mang lại cho mình những kho báu của giáo phận. Lôrensô đã mang đến cho ông những kho báu: người bệnh tật, người thiếu thốn, người bị gạt ra ngoài lề xã hội.

Thánh vịnh cho ta một manh mối khác: “Phúc đức cho người biết xót thương và cho vay.” Phó tế Lôrensô đã dành cả cuộc đời của mình để chăm sóc những người cần sự giúp đỡ. Lôrensô ghét cuộc sống của mình trong thế giới này và do đó, đã bảo tồn nó cho cuộc sống vĩnh cửu. Chúa Giêsu nói, “Ai phụng sự Ta thì Cha Ta sẽ tôn vinh nó.” Lôrensô đã bị nướng chín. Roma tôn kính ngài là một trong những vị thánh vĩ đại nhất và là người đồng bảo trợ Roma với Phêrô và Phaolô. Và, một lần nữa, ta được xác nhận rằng “ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời”. Hy vọng ký ức về Thánh Lôrensô sẽ giúp ta hướng đến việc chăm lo những người yếu thế trong xã hội. Amen.

Lm. FX. Nguyễn Văn Thượng

“Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy.”

Mối liên hệ chặt chẽ của Ga 12,24-25 chắc chắn rằng luật hy sinh thiêng liêng được áp dụng cho chính cuộc đời của Chúa chúng ta. Câu này cũng chắc chắn không kém rằng luật này được áp dụng cho những người theo Chúa. Mọi tư lợi, dù ở dạng thô thiển của lạc thú và quyền lực hay ở dạng tinh tế hơn của cảm xúc và tư tưởng, đều là tự ái; mọi sự hy sinh bản thân, dù là trong bổn phận hàng ngày đối với con người hay trong sự tận hiến hết mình cho Chúa, đều là sự tự cứu mình. Đi theo Chúa, chúng ta sẽ được dẫn tới vườn cây dầu, gặp Chúa trong cảnh hấp hối ; nhận cái hôn của Giu-đa ; cảnh bị bỏ rơi một mình; rồi đến tòa Phi-la-tô nhận bản án tử ; bị cười nhạo, khạc nhổ, đánh đập tàn nhẫn ; rồi phải đi trên đường thập giá với những bước đi mỏi mệt cần một Si-mê-on vác đỡ thánh giá, đến đồi sọ bị đóng đinh, bị cười nhạo xỉ nhục khi chịu treo trên thập giá ; trong cơn đau ngút ngàn… Thế nhưng, đâu dừng lại ở đó! Chiên Thiên Chúa đưa chúng ta vượt qua tình cảnh nô lệ tội lỗi, tiến vào vùng đất hứa đầy tràn ân nghĩa Thiên Chúa.

Và chính lúc chúng ta cảm nhận hy sinh, đau khổ trong giới hạn kiếp người, chúng trở nên giống Đức Ki-tô nhất, bởi vì con đường Người đi là con đường của “hạt lúa mì”, đó cũng là cách làm phát sinh hoa trái hiệu quả nhất ; và hoa trái của Chúa Thánh Thần, của sự sống mới, của Đức Ki-tô phục sinh.

Lm. Tôma Lê Duy Khang

Hôm nay toàn thể Giáo hội mừng kính thánh Laurenso phó tế, tử đạo. Chúng ta biết, ngày 7.8 Đức Giáo Hoàng Sixtus II chịu tử đạo trong hang toại đạo đang khi dâng thánh lễ, và cùng phúc tử đạo với ngài là 4 thầy phó tế đang vây quanh ngài, trừ Lô-ren-xô. Bởi vì, thầy phó tế này là người quản lý tài sản của Giáo Hội Rôma (Ai làm quản gia chúng ta thấy cũng có lợi). Người ta cho ngài thời hạn 4 ngày để đem nộp tất cả tài sản cho nhà nước. Theo truyền thuyết, sau thời hạn 4 ngày, Lôrenxô đến toà án cùng với một đám đông dân nghèo của thành phố La Mã, ngài nói với quan toà: “Này, đây là tài sản của Hội Thánh. Hãy nói với hoàng đế, ráng gìn giữ cho cẩn thận, vì chúng tôi không còn có mặt ở đây để gìn giữ nữa.” Sau đó thánh nhân được phúc tử đạo trên giàn lửa thiêu.

Ngày nay thánh Lôrenxô được xem như Thánh quan thầy của người nghèo, vì ngài đã chăm sóc và tôn trọng họ như “kho tàng của Hội Thánh.” Ngài cũng là thánh quan thầy của các quản thủ thư viện, của các danh nhân công giáo, của phòng cháy chữa cháy, của những nghề đụng tới lửa, chỉ vì ngài bị thiêu trên giường sắt nung đỏ. Hiểu được như vậy, chúng ta thấy không phải chỉ cải vật chất mới là điều mà Chúa ban cho chúng ta, mà ngay cả người nghèo cũng là tài sản mà Chúa ban cho chúng ta, chúng ta phải có trách nhiệm lo lắng chăm sóc cho những người nghèo.

Thế nhưng chúng ta làm gì để giúp cho họ, có phải chúng ta chỉ biết giúp đỡ và giúp đỡ cho họ thôi và lo cho họ suốt cả cuộc đời? Chúng ta không thể nào lo cho họ suốt cả cuộc đời được, có một người nói như thế này: Khi bạn cho ai đó một con cá thì người đó chỉ đủ ăn trong ngày hôm đó. Nhưng nếu bạn dạy họ câu cá, nghĩa là bạn buộc họ phải làm việc để kiếm ăn, thì họ có thể tự kiếm ăn cả đời. Khi bạn bố thí cho người ta, nghĩa là bạn đang phủ định nhân phẩm và tước đoạt số phận của họ. Nghĩa là phải giúp đỡ họ để họ có thể tự lập để mà lo cho chính mình, khi chúng ta không còn hiện diện với họ nữa.

SỰ LƯỜI BIẾNG GIỐNG NHƯ MỘT TRÁI TÁO ĐỘC

Kumar ngồi ngủ gật suốt trên đường đi mặc cho người cha lầm lũi đánh xe trên con đường gồ ghề sỏi đá. Đang đi người cha bỗng nhìn thấy trên đường có một chiếc móng sắt bịt chân ngựa ai đó đánh rơi. Người cha lay Kumar dậy và bảo hãy nhảy xuống nhặt chiếc móng kia lên, mang ra chợ bán. Kumar mặc dù nghe thấy nhưng lười biếng cứ ngồi im giả vờ ngủ gật.

Người cha lại lay cậu con trai lần nữa, nhớ ra Kumar rất thích ăn quả anh đào, ông nói: “Nhảy xuống nhặt đi con, tới chợ cha bán nó đi rồi mua quả anh đào cho con ăn” nhưng cậu bé Kumar vẫn không nhúc nhích, mắt vẫn nhắm nghiền giả vờ ngủ. Tiếc của, người cha đành hãm xe ngựa lại và nhảy xuống nhặt chiếc móng sắt lên.

Đến chợ, sau khi bán hết rau, người cha đến chỗ nhà rèn sắt và bán chiếc móng ngựa được 100 đồng, ông mua một túi quả anh đào và cất đi. Trên đường về nhìn thấy túi quả anh đào ngon lành treo trước xe, mặc dù thèm lắm nhưng cậu bé Kumar không dám xin cha vì đã lười biếng. Người cha muốn dạy cho con trai mình bài học về sự lười biếng nên ngồi im lặng, phớt lờ sự thèm thuồng của cậu con trai, ông giả vờ đánh rơi một quả anh đào xuống đường.

Chẳng cần phải để cha thúc giục hay nói gì, Kumar ngay lập tức nhảy ngay xuống xe, nhặt quả anh đào nhai ngấu nghiến rồi lại đuổi theo xe và nhảy lên. Cứ thế, cậu bé vừa nhảy lên xe ngồi chưa ấm chỗ, người cha lại giả vờ đánh rơi một quả anh đào, Kumar lại nhảy xuống, người cha cũng vẫn đánh xe đi bình thường, không chờ.

Và Kumar lần nào cũng phải đuổi theo xe để nhảy lên. Vừa đúng đến nhà thì hết túi quả anh đào mấy chục quả, Kumar thì mặt mũi phờ phạc vì ăn được một quả anh đào lại phải chạy theo xe thở dốc rồi lại nhảy lên, nhảy xuống.

Người cha hỏi: “Con có mệt không?” Kumar gật đầu vì không còn sức để trả lời, người cha nói: “Vậy con thích nhảy xuống một lần rồi nhảy lên ngay hay vài chục lần và chạy đuổi theo xe?” Kumar cúi đầu hiểu ra: “Dạ con đã hiểu thưa cha, từ giờ con sẽ không để sự lười biếng theo mình nữa ạ.”

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta hiểu được điều đó, để giúp người khác nhận ra được điều mà họ cần, điều mà họ thiếu là cái gì, để họ biết tự lập tìm kiếm, để họ có thể tự trưởng thành khi ta không còn ở với họ. Amen.

Thứ Sáu Tuần XVIII Thường Niên
Thánh Clara, Trinh nữ. Lễ nhớ

(Đnl 4,32-40; Mt 16,24-28)

Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân

Đnl 4, 32-40: Người đã yêu thương cha ông các ngươi và sau đó đã tuyển chọn con cháu các ông ấy.

Tv 77,12a: Tôi hồi tưởng lại những việc làm của Chúa.

Mt 16,24-28: Người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình.

Mặc dù xuất thân cao quý và được giáo dục tốt, Clara đã bị thu hút bởi lý tưởng khó nghèo của Thánh Phanxicô Assisi. Trước áp lực của gia đình, ngài đã phân phát tài sản của mình cho người nghèo và thành lập Dòng Clara Nghèo khó, những người đã cống hiến hết mình cho cuộc sống khó nghèo và cầu nguyện. Thánh Clara hiểu rằng sự nghèo khó làm cho con người được tự do yêu thương: yêu mến Thiên Chúa không phân chia và sẵn sàng phục vụ mọi người. Phương châm của thánh nhân là: “Chúa ơi, con rất vui vì Chúa đã tạo ra con.”

Thánh nhân đã vui vẻ sống đời thánh hiến và vượt qua những khó khăn ở đời này. Tinh thần sống theo Tin mừng rất mãnh liệt của ngài cũng là một gương mẫu sống động và hữu ích cho chúng ta học hỏi. Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ được sự sống.” Hôm nay, chúng ta cùng hồi tưởng lại những việc làm của Chúa để sống xứng đáng hơn với hồng phúc mà ta lãnh nhận. Thiên Chúa cho ta hiện diện bởi Người yêu thương và để ta sống đời chứng nhân cho Người.

Lm. FX. Nguyễn Văn Thượng

“Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?”

Đó chẳng phải là lần cám dỗ thứ ba sao—là lần ma quỷ đem Chúa Giê-su lên một ngọn núi cao để chỉ cho Người thấy tất cả các vương quốc trên thế giới. Ma quỷ nói: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ này, nếu ông sấp mình thờ lạy tôi”. Có ai trong chúng ta chưa từng đối mặt với loại cám dỗ đó không? Có ai không cháy bỏng khao khát hay tham vọng về một điều gì đó có thể kéo người ấy ra khỏi Thiên Chúa không? Thiên Chúa và cuộc sống nằm ở một phía của sự phân chia. Phía bên kia tối om và chúng ta không thể nhìn rõ, nhưng Chúa Giê-su nhắc nhở chúng ta rằng cái chết ẩn nấp trong bóng tối.

Đoạn Tin Mừng hôm nay thường được trích dẫn khi thảo luận về cái giá mà chúng ta phải trả để đạt được sự giàu có trần thế; nhưng Chúa chúng ta không chỉ đề cập đến vật chất và của cải. Người cũng đang nói về ơn gọi và mục đích của cuộc đời chúng ta – liệu chúng ta sẽ theo Người hay chọn con đường của thế gian? Trong suốt cuộc đời, mỗi chúng ta đều phải trả lời những câu hỏi này. Dĩ nhiên, nếu đã chọn đời sống hôn nhân hay đời tu thì câu trả lời rất đơn giản, nhưng chọn lựa thì khó. Khi đã chọn ơn gọi của mình rồi, vì vậy việc sống thế nào là tùy thuộc vào việc mình sẽ đặt ước muốn vật chất lên trên bổn phận ơn gọi của mình hay sẽ vui vẻ và hân hoan đón nhận thập giá hy sinh thường đi kèm với ơn gọi. Chúng ta đưa ra những lựa chọn này trong đức tin và mỗi quyết định chúng ta đưa ra đều mang lại cho chúng ta niềm vui hoặc lấy đi niềm vui.

Chúa Giêsu mời gọi con người đặt Chúa và tìm kiếm Nước Chúa trên hết mọi sự.

Lm. Tôma Lê Duy Khang

Tin mừng hôm qua Chúa Giêsu mời gọi chúng ta quy hướng về Chúa, đặt Chúa làm trung tâm của cuộc đời của mình. Nhưng nếu chỉ như thế thì chưa đủ mà phải sống lời Chúa dạy trong cuộc đời của mình, như lời Chúa Giêsu đã nói: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).

Chính vì thế, tiếp theo trang Tin mừng hôm qua, Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?”

Trong Tin mừng có một câu chuyện kể về anh thanh niên có nhiều của cải cũng là một minh chứng cho chúng ta, anh ta hỏi Chúa Giêsu làm thế nào để có được sự sống đời đời, Chúa Giêsu trả lời: “Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn.” Người ấy hỏi: “Điều răn nào?” Đức Giêsu đáp: “Ngươi không được giết người. Ngươi không được ngoại tình. Ngươi không được trộm cắp. Ngươi không được làm chứng gian. Ngươi phải thờ cha kính mẹ”, và “Ngươi phải yêu đồng loại như yêu chính mình.” Người thanh niên ấy nói: “Tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ, tôi còn thiếu điều gì nữa không?” Đức Giêsu đáp: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” Nghe lời đó, người thanh niên buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” (Mt 19,17-22).

Mở rộng vấn đề này ra, đó là hiểu được như vậy, chúng ta mới có thể hiểu được tại sao khi Phêrô tuyên xưng Chúa “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” thì sau đó Chúa Giêsu nói với Phêrô: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.” Nếu bình thường thì đủ rồi, nhưng sau đó trong Tin mừng theo thánh Gioan lại trình bày cho chúng ta một chi tiết nữa đó là khi Chúa Giêsu sống lại, Ngài hiện ra với các môn đệ ở biển hồ Tibêria, Ngài lại hỏi thánh Phêrô: “Con có yêu mến Thầy không?” sau khi Phêrô trả lời, thì Chúa Giêsu nói với thánh nhân: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy.”

Nghĩa là không phải Chúa Giêsu thiết lập Giáo hội của Chúa trên nền tảng các tông đồ và trao phó đoàn chiên cho các tông đồ, cụ thể là tông đồ trưởng Phêrô là xong, nhưng ngài phải trao nhiệm vụ cho các tông đồ nữa đó là phải yêu mến đoàn chiên của Chúa, yêu như Chúa yêu, không loại trừ, không phân biệt, nói cách khác là khi có trách vụ thì phải thực hiện trách vụ đó trong cuộc đời của mình, chứ không phải khi có trách vụ rồi ngồi đó để hưởng lợi.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta hiểu được điều đó, để chúng ta thay đổi suy nghĩ của mình rằng không phải tin Chúa là đủ, mà phải sống đức tin đó trong cuộc đời của mình, đó mới là điều kiện cần và đủ để chúng ta được hưởng ơn cứu độ. Amen.

Thứ Bảy Tuần XVIII Thường Niên

(Đnl 6,4-13; Mt 17,14-20)

Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân

Đnl 6,4-13: Hãy yêu mến Chúa ngươi hết lòng ngươi.

Tv 18,2: Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa.

Mt 17,16-20: Nếu các con có lòng tin, thì chẳng có gì các con không làm được.

“Hỡi Israel, hãy nghe đây” là một bản văn được đọc ba lần một ngày, hoặc ít nhất một lần vào buổi sáng bởi mọi người Do Thái ngoan đạo, thậm chí cho đến ngày nay. Lời kêu gọi đó cho biết Chúa là một Chúa giải phóng, Đấng đã làm nhiều điều cho dân tộc của Người. Để đáp lại tình yêu thương của Chúa, dân Israel phải thực hành điều răn: phải yêu Chúa hết lòng, hết trí khôn, và hết sức lực.

Nếu nhìn lại Kinh thánh và lịch sử, nhiều người rất coi trọng lời của Chúa. Với họ, Chúa có thể làm những điều rất vĩ đại. Chúa Giêsu dạy rằng các phép lạ được đo lường bằng thước đo đức tin: “Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì các con có khiến núi này rằng: Hãy rời khỏi đây mà sang nơi kia, thì nó liền đi sang, và chẳng có gì các con không làm được”.

Để cộng tác với Chúa, ta cần một đức tin sâu sắc và vững chắc, có khả năng hỗ trợ những nghịch cảnh, thất bại, khó khăn và sự kém hiểu biết. Niềm tin chỉ có hiệu quả khi nó được bắt rễ mạnh mẽ. Trong thời điểm hiện tại, đức tin của ta được thử thách và kiểm nghiệm qua những khó khăn và vấn nạn. Ta hãy cầu xin Chúa củng cố đức tin, hướng dẫn ta đặt niềm tin vào tình yêu và sự chăm lo của Ngài.

Lm. FX. Nguyễn Văn Thượng

Người nói với các ông: “Tại anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: “rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được.”

Câu này trong Mt 17,20 mang đến cho chúng ta rất nhiều sự khích lệ! Một hạt cải có kích thước khoảng một đến hai milimét. Bức tranh Chúa vẽ cho các môn đệ là bức tranh về niềm hy vọng! Đức tin của chúng ta không cần phải rộng lớn bên ngoài để có tác động lớn. Hạt cải nhỏ bé có tiềm năng phát triển thành một bụi cây cao lớn! Một chút niềm tin dường như vụn vặt có thể chuyển núi dời non.

Vì vậy, khi xem xét đời sống và đức tin của mình, chúng ta đang sử dụng những gì mình có một cách trọn vẹn nhất hay chúng ta đã quyết định nhường cho người khác có đức tin lớn hơn hoặc tốt hơn để làm chứng, cầu nguyện hoặc bố thí? Có phải chúng ta đã nhận ra rằng sự đóng góp của chúng ta không bao giờ đủ để tạo ra sự khác biệt nên chúng ta chần chừ? Chúng ta có nghĩ rằng những gì Đức Chúa đã giao phó cho chúng ta đức tin là để hành động cho sự phát triển lớn mạnh giống hạt cải và bụi cải không? Chúng ta có hướng đức tin của mình với loại kỳ vọng đó không?

Đức tin của bạn có nghĩa là để phát triển và tiến triển! Giống như một hạt cải! Khi chúng ta hành động, chúng ta sẽ thấy đức tin của mình lớn lên như hạt cải và sẽ được khích lệ với hoa trái từ những nỗ lực nhỏ nhất của tình yêu và đức tin! Như Thánh Phao-lô xác quyết: “Tôi tin chắc rằng: Đấng đã bắt đầu thực hiện nơi anh em một công việc tốt lành như thế, cũng sẽ đưa công việc đó tới chỗ hoàn thành cho đến ngày Đức Ki-tô Giê-su quang lâm. (Phi-líp-phê 1,6).

Lm. Tôma Lê Duy Khang

Tin mừng hôm nay trình bày việc Chúa Giêsu chữa lành cho một đứa bé bị mắc bệnh kinh phong, trong khi đó các môn đệ của Chúa lại không chữa được căn bệnh này.

Chúng ta hãy nhớ trước đó khi kêu gọi 12 môn đệ Chúa Giêsu đã trao năng quyền cho các ông: “Rồi Đức Giê-su gọi mười hai môn đệ lại, để ban cho các ông quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 10,1).

Thế nhưng tại sao các môn đệ lại không chữa được căn bệnh này? Theo như lời Chúa Giêsu là các môn đệ yếu lòng tin, nói cách khác là các ông không ý thức được sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời mình, nghĩa là khi Chúa có mặt thì sống khác, khi Chúa vắng mặt thì sống khác.

Trường hợp của Phêrô là một minh chứng. Tại sao ban đầu Phêrô lại mạnh dạng tuyên xưng Chúa là Đấng Kitô con Thiên Chúa, rồi tiếp đến là “Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã” (Mt 26, 33) nhưng sau đó trong dinh thương tế ông lại chối Chúa, tại sao vậy? Tại vì lúc tuyên xưng là có Chúa ở đó hiện diện, có anh em hiện diện nên là động lực đức tin cho ông, còn khi chối Chúa thì ông chỉ đứng trơ trọi có một mình, nên khi ở một mình rất dễ sa ngã.

Mở rộng vấn đề ra, chúng ta thấy, trong cuộc đời có những điều chúng ta cho là hên, chúng ta cho là tình cờ, nhưng thật ra không phải là hên là tình cờ đâu, nhưng là do ơn Chúa ban cho chúng ta, có Chúa đứng đó quan phòng cho chúng ta.

Có một câu chuyện rất đẹp về sự tình cờ được kể lại như sau: Một buổi tối nọ, người chồng trở về nhà sau khi đã hết giờ làm việc. Lúc đó trời đã khuya lắm rồi, nhưng anh nhận thấy chiếc đèn bên hiên nhà mình vẫn còn sáng rực, chiếu rọi cả một đoạn đường phía ngoài ngôi nhà. Anh cho rằng vợ mình ngủ quên, nên khi vừa vào nhà, anh định bấm công tắc để tắt ngọn đèn đó. Bất ngờ, người vợ của anh đã ngăn lại. Anh chưa kịp hỏi nguyên do thì vợ anh đã chỉ tay ra ngoài cửa sổ ra hiệu cho anh nhìn theo. Ven đường, gần bên ngoài cửa sổ căn nhà là một chiếc xe ba bánh chở đầy rác. Ngay cạnh đó, một cặp vợ chồng đang ngồi nghỉ dưới ánh đèn ấm áp bên hiên nhà của anh. Họ vừa nói vừa cười, và cùng nhau ăn chút gì đó để lót dạ đêm khuya sau khi đã vất vả làm việc.

Nhìn thấy cặp vợ chồng ấy đang chuyện trò vui vẻ dưới ánh đèn, cả anh và vợ đưa mắt nhìn nhau rồi nhẹ nhàng rút lui. Cứ như vậy, hằng đêm, ngọn đèn bên hiên nhà ấy vẫn luôn được thắp sáng và đôi vợ chồng người thu gom rác vẫn đến ngồi nghỉ chân cùng nhau bên ánh đèn ấm áp ấy. Ðôi vợ chồng nghèo ấy không hề biết rằng, ở trong thành phố đó, có một ngọn đèn vẫn hằng đêm vì họ mà thắp sáng.

Ngọn đèn được thắp sáng hằng đêm trong câu chuyện mà chúng ta vừa nghe là một điều rất tình cờ đối với đôi vợ chồng nghèo nhưng lại là một hành động đầy ý nghĩa và thắm đượm tình người của những người đang sống êm ấm trong căn nhà đó.

Rất nhiều lúc một chút hy sinh bé nhỏ của người này lại mang đến niềm vui lớn lao cho người kia. Những người có lòng tốt thật sự không cần ai biết đến những điều tốt đẹp họ đã làm. Nên trong cuộc đời này chúng ta thấy không có điều gì là tình cờ cả, chúng ta phải tin rằng Chúa luôn hiện diện và quan phòng cho chúng ta trong mọi hoàn cảnh. Khi chúng ta tin như vậy, thì chắc chắn Chúa sẽ ban ơn cho chúng ta, bởi vì Chúa nói, nếu anh em có đức tin như hạt cải thôi, thì có thể khiến ngọn núi này hãy sang bên kia, và chẳng có gì mà anh em không thể làm được. Amen.