Cuộc Khổ Nạn Của Chúa Giêsu Kitô Theo Thánh Mátthêu

0
396

Cuộc Khổ Nạn Của Chúa Giêsu Kitô Theo Thánh Mátthêu

26,1 – 27,66

Xuyên suốt Tin mừng của mình, Mátthêu theo sát mạch truyện của nguồn chính là Marcô nhưng vẫn tô điểm thêm cho câu chuyện Chúa Giêsu với các chủ đề và những nét riêng trong Tin mừng của ngài.

Điều tương tự cũng đúng với trình thuật cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu nơi mà ngài lấy lại hầu như toàn bộ câu chuyện của Marcô. Tuy nhiên ở đây cũng vậy, Mátthêu kể lại câu chuyện Chúa Giêsu trong những giờ phút cuối đời để làm nổi bật các chủ đề riêng của mình. Khi đối diện với cái chết, Chúa Giêsu đã hoàn thành kế hoạch cứu độ của Chúa Cha theo lời Sách Thánh loan báo và khai mạc một thời đại mới của lịch sử rạng ngời sự sống của Chúa phục sinh. Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Người luôn tuân phục, luôn bền vững và trung kiên trong mọi đường lối của Cha ngay cả khi phải chịu những đau khổ nghiệt ngã. Chúa Giêsu hết lòng tin tưởng vào tình thương của Cha, và lòng tín thác ấy được thử thách trong những đau đớn dữ dằn, những khổ nhục xấu xa, và cái chết bi thảm. Tất cả như đổ ập xuống con người Chúa Giêsu như một cơn thịnh nộ của Chúa Cha, nhưng Người vẫn một lòng cậy trông và phó thác.

Những biến cố khai mào

26,1-16

Mátthêu mô tả cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu trong thái độ của một người bình thản đi vào thực hiện quyết định đã được Chúa Cha chọn lựa. Đó là một thái độ hoàn toàn tự do, đã được chuẩn bị và xác lập ngay từ những dấn thân quyết tâm và mạnh mẽ trong suốt hành trình sứ vụ. Đã xuất hiện biết bao trở ngại và chống đối, nhưng vào những ngày giờ này sự kháng cự quyết liệt diễn ra giữa sự sống và sức mạnh của cái chết.

Phần mở đầu của trình thuật Khổ Nạn tạo nên một bối cảnh chung, đó là khung cảnh lễ Vượt Qua của người Do Thái sắp đến. Và chính trong dịp lễ này các thượng tế và kinh sư bàn mưu tính kế để giết  Chúa Giêsu. Mátthêu bắt đầu bằng một lời giới thiệu long trọng (26, 1-5): bây giờ Chúa Giêsu sắp kết thúc cuộc đời dương thế của mình, sắp hoàn tất những lời giảng dạy cho Israel, Người lại sẵn sàng nói lên những lời mạnh mẽ nhất và bất ngờ nhất: “Anh em biết còn hai ngày nữa là đến lễ Vượt Qua, và Con Người sắp bị nộp để chịu đóng đinh vào thập giá.”  Nắm hiểu sâu xa hoàn cảnh hiện tại, Chúa Giêsu bình tĩnh báo trước cho các môn đệ biết những biến cố sắp tới của cuộc Khổ Nạn.

Trái ngược với thái độ bình thản của Chúa Giêsu, đó là tâm trạng băn khoăn nôn nóng của các nhà lãnh đạo tôn giáo đang âm mưu thực hiện một kế hoạch hiểm độc. Ngay cả khi họ quyết định bắt giữ Người bằng cách mua chuộc sự phản bội của một môn đệ, thì họ vẫn sợ ảnh hưởng và sức hút của Chúa đối với dân chúng. Trong suốt Tin Mừng của mình, Mátthêu mô tả các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái qua những hình ảnh tiêu cực. Họ tiêu biểu cho sự chống đối và khước từ Chúa Giêsu và sứ điệp của Người; những thói xấu của họ điển hình cho tất cả những sai lầm mà một người môn đệ Chúa Giêsu phải loại bỏ.

Thực ra không phải ai cũng khước từ Chúa Giêsu, như khung cảnh hết sức cảm động của cuộc xức dầu cho thấy (26, 6-13). Khi Người đang ở Bêthania, ngoại vi Giêrusalem và đang dùng bữa tối ở nhà ông Simôn, người phong hủi (biến cố này cho thấy lòng thương xót của Chúa đối với các bệnh nhân và những người bị bỏ rơi), một người phụ nữ giấu tên đã dành cho Chúa một cử chỉ hiếu khách và lòng kính yêu. Cô hào phóng đổ đầy dầu thơm quý giá trên đầu Người.

Bởi vì trong thế kỷ thứ nhất tại Do Thái, người ta không thấy có việc xức dầu cho thực khách trong các bữa tiệc của những người giàu có, quý tộc nên các môn đệ Chúa Giêsu coi hành động của người phụ nữ là gây sốc và kì dị. Nhưng đối với Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người, hành động yêu mến này lại rất phù hợp với thời khắc định mệnh của cuộc Khổ Nạn. Người phụ nữ xức dầu cho Chúa Giêsu trên đầu, giống như các vị tiên tri và các vị vua Israel từng được xức dầu, do đó, bà đã dành cho Chúa Giêsu lòng tôn kính như Người đáng được kính tôn. Và, như chính Chúa Giêsu tuyên bố, trong việc xức dầu đầy cảm động và yêu mến này, bà đã chuẩn bị cho biến cố qua đời và mai táng Chúa. Lòng tôn kính mến yêu đối với Chúa Giêsu và sự thấu cảm cuộc khổ nạn của Người là dấu chỉ của một người môn đệ đích thực, và vì vậy, cử chỉ táo bạo của người phụ nữ vô danh này sẽ được ghi nhớ ở bất cứ nơi nào mà Tin Mừng được loan báo trên toàn thế giới. Chắc chắn, đây là chứng tá đáng chú ý nhất của bất kỳ nhân vật nào trong toàn bộ Tân Ước.

Trái ngược hoàn toàn với lòng yêu mến dịu dàng nhưng táo bạo của người phụ nữ, Giuđa, một trong Nhóm Mười Hai của Chúa Giêsu, đến gặp các thượng tế để “bán linh hồn của mình cho ma quỷ” và phản bội Chúa Giêsu. Một mình Mátthêu ghi nhận việc ngã giá ba mươi đồng bạc, giá của một nô lệ theo sách Xuất hành 21,32. Không còn nghi ngờ gì nữa, Giuđa là một bí ẩn đau đớn đối với cộng đồng tín hữu sơ khai: làm thế nào một trong mười hai người đã được Chúa Giêsu tuyển chọn kĩ lưỡng mà lại có thể phản bội Người? Tin Mừng Mátthêu không bỏ qua ảnh hưởng làm tán tận lương tâm và xói mòn nhân phẩm mà tiền bạc và lòng tham gây ra: “Kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó”, và “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Mammon được” (6, 21,24).

Những nhân vật chính đang xuất hiện trên tấm màn bi kịch: Chúa Giêsu, các môn đệ và các đối thủ của Người. Cỗ máy của sự phản bội và cái chết bắt đầu quay. Và Mátthêu ghi nhận, Giuđa đã đi ra ngoài tìm dịp thuận tiện để trao nộp Người (26:16). Từ Hi Lạp Mátthêu sử dụng cho “dịp thuận tiện” là eukairian- kairos, thời điểm của sự lựa chọn và quyết định. Có một điều trớ trêu ở đây: Cả Giuđa và Chúa Giêsu đều tiến về cùng một thời khắc định mệnh: với người này, đó sẽ là thời gian của sự phản bội và tự hủy diệt; còn đối với Chúa Giêsu, là một thời khắc để chứng tỏ lòng trung thành tối thượng và là một cơ hội để trao ban sự sống cho trần gian.

Thời khắc định mệnh

26,17-35

Các cảnh tiếp theo tập trung vào bữa ăn cuối cùng của Chúa Giêsu với các môn đệ. Đó là đêm trước lễ Vượt Qua, khởi đầu cho một cuộc hành hương trọng đại. Dịp này người Do Thái từ khắp Israel và trên khắp thế giới La Mã cử hành cuộc Xuất hành, biến cố lịch sử Thiên Chúa giải thoát dân khỏi cảnh nô lệ và cái chết. Với sự long trọng uy nghi, Chúa Giêsu bắt đầu chuẩn bị lễ Vượt Qua cuối cùng của Người. Người sai các môn đệ vào Giêrusalem, đưa ra những chỉ dẫn chính xác về việc chuẩn bị cho bữa ăn tối. Những lời của Chúa Giêsu là duy nhất đối với Mátthêu, nó mang nhiều ý nghĩa sâu xa: “Thời của Thầy đã gần tới” (26,18). Từ kairos trong tiếng Hi Lạp lại được sử dụng một lần nữa, biểu thị thời khắc quyết định của lịch sử, khi mà một thế giới cũ sẽ bị vượt qua và một thời đại mới sẽ ra đời. Đối với Mátthêu, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu thật sự là một bước ngoặt đối với toàn bộ số phận lịch sử của con người.

Các môn đệ mau mắn tuân theo lệnh truyền của Chúa Giêsu và tất cả đều đã sẵn sàng cho lễ Vượt Qua. Khung cảnh bữa tối chia tay này đan xen cả nỗi buồn lẫn sự phấn khích. Trong văn hóa Semit cũng như nhiều nơi khác, bữa ăn là một khoảnh khắc thiêng liêng, một thời gian mà đôi khi người ta tạo lập được nhiều mối liên kết xã hội và tình bạn. Trong bối cảnh đó, Chúa Giêsu dự cảm thấy rằng một trong số mười hai người sẽ cắt đứt sứ vụ môn đệ với nhau và với thầy. Những môn đệ khác cảm thấy bầu khí thật nặng nề và thật sự hoang mang, họ đặt ra một câu hỏi, và câu hỏi đó cũng sẽ vang vọng trong lòng mỗi Kitô hữu mỗi khi họ sống bất trung với Chúa: “Thưa Thầy, chẳng lẽ lại là con?”  (26,22).

Giuđa trở thành kẻ phản diện của người môn đệ, một nhân vật dường như làm cho vị thánh sử phải đặc biệt chú tâm. Toàn bộ dòng lịch sử con người được đan bện một cách mầu nhiệm trong sự quan phòng của Thiên Chúa, thậm chí ngay cả sự bội giáo và sự bội phản niềm tin cũng có ý nghĩa riêng của nó. Nhưng tình yêu quan phòng của Chúa không rút cất trách nhiệm của chúng ta. Trong suốt sách Tin Mừng của mình, Mátthêu đã dừng lại lâu hơn ở chủ đề này: chính Ächúng ta phải gánh chịu trách nhiệm với Chúa về tất cả những lựa chọn và hành động của mình. Nếu Giuđa chọn cái chết, thì chính anh sẽ trải nghiệm và lãnh lấy hậu quả của nó. Như thể chính anh đã niêm phong số phận của mình, Giuđa cũng lặp lại câu hỏi như các môn đệ khác: “Rabbi, chẳng lẽ con sao?” (26,25), một cung giọng hết sức mỉa mai chỉ tìm thấy trong Mátthêu.

Khi bữa ăn kết thúc, Chúa Giêsu sẽ trở lại với đề tài bi thảm là sự phản bội và vấp ngã (26, 31-34). Không chỉ Giuđa mà tất cả các môn đệ, kể cả Phêrô mà Chúa Giêsu đã chúc phúc rồi đặt làm người lãnh đạo của cả nhóm (16,16), cũng như đã giúp ông lấy lại bình tĩnh khi ông bị chao đảo cuống cuồng  trên mặt biển (14, 28-31), sẽ cho chúng ta thấy lòng trung thành của họ đối với Chúa đã bị phá vỡ tan tành khi họ chạm phải những thử thách đe dọa và nỗi sợ hãi đè nặng. Nhưng ngay cả những khoảnh khắc tối tăm nhất này cũng không đi ra khỏi Lời Thiên Chúa; sự vấp ngã của các môn đệ đã ứng nghiệm lời tiên tri Dacaria 13, 7: “Hãy đánh mục tử thì đàn chiên sẽ tan tác.”

Những lời tiên báo về sự phản bội và vấp phạm tạo nên một khung cảnh nhức nhối bao quanh thời điểm quan trọng của bữa ăn Vượt Qua. Sử dụng những biểu tượng sống động và như không thể phai nhòa trong kí ức mỗi người, Chúa Giêsu nói với các môn đệ về ý nghĩa cái chết của Người. Bánh được bẻ ra chính là thân mình Người trao ban cho họ; cái chén chứa đầy rượu là máu Người sắp đổ ra, máu của giao ước ban ơn tha thứ và tình yêu không bao giờ vơi cạn cho tất cả mọi người. Tất cả sứ vụ của Chúa Giêsu- mọi lời của sự thật có sức giải thoát, mọi cuộc chữa lành, mọi sự đối đầu với bất công- đều được cô đọng lại ở đây trong bánh và chén, trong mình và máu Chúa Giêsu, trọn vẹn được trao ban vì ơn cứu chuộc trần gian.

Bữa ăn tối bi thương này không hẳn là lễ Vượt Qua cuối cùng của Chúa Giêsu và các môn đệ. Người sẽ mừng lễ này một lần nữa trong Vương Quốc của Thiên Chúa. Bất chấp sự yếu đuối và vấp ngã của họ, tình yêu trung thành mãnh liệt Chúa dành cho các môn đệ, sẽ tập hợp họ lại một lần nữa vượt ra khỏi ranh giới của cái chết.

Gếthsêmani

26,36-56

Tốc độ của trình thuật cuộc Khổ Nạn bắt đầu diễn tiến nhanh. Chúa Giêsu và các môn đệ rời khỏi phòng ăn và đi đến một vườn cây ô liu cách một quãng xa (Luca đặt Gếthsêmani trên Núi Ô liu). Ở đó, Chúa Giêsu đưa ba môn đệ đi riêng với mình và Người bắt đầu cầu nguyện với tâm hồn xao xuyến và đau khổ. Lời cầu nguyện của Người gợi lại Thánh vịnh 42: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (26,38). Đấng đã dạy các môn đệ của mình sự quan trọng của lời cầu nguyện chân thành, đơn sơ và tin tưởng (6, 5-15) thì giờ đây cầu nguyện với tất cả tâm hồn khi phải đối diện với cái chết trước mắt. Chúa Giêsu phủ phục sâu xuống mặt đất và phó thác trọn vẹn bản thân mình cho Thiên Chúa: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (26:39). Tất cả mầu nhiệm về con người Chúa Giêsu được hiện rõ qua cử chỉ cầu nguyện này: là một con người ai cũng muốn bám vào sự sống và sợ cái chết. Tuy nhiên, Người cũng là người Con trung thành của Thiên Chúa, nên đã đặt tất cả số phận của mình vào bàn tay quan phòng của Cha yêu thương chứ không theo ý riêng mình.

Ba lần Chúa Giêsu lặp lại lời cầu nguyện tha thiết của mình. Người đã mời gọi các môn đệ tỉnh thức với Người nhưng họ lại mê ngủ, và một lần nữa, đã không đáp lại được ý muốn của Thầy. Giấc ngủ mê mệt cho thấy rõ trạng thái tinh thần trì trệ uể oải, ý chí kiệt quệ; là những môn đệ thân tín nhưng họ lại không ở trong tư thế sẵn sàng ứng phó với cái chết hung tợn sắp chụp xuống Gếthsêmani và đe dọa sự sống của Thầy mình.

Cơn bão tử thần ập đến khi Giuđa dẫn một đám đông lớn trang bị gươm giáo và gậy gộc xông vào vườn để bắt Chúa Giêsu (26,47). Một lần nữa, Tin Mừng Mátthêu đặc biệt chú ý đến người môn đệ phản bội này. Trong sự mỉa mai cay đắng, cái hôn của anh chính là dấu hiệu của sự phản bội. Và cũng như trong bữa ăn tối, Giuđa che giấu sự phản bội của mình bằng những lời lẽ dường như ngây thơ vô hại: “Rabbi, xin chào Thầy!” Nhưng Chúa Giêsu nhìn sâu vào tâm hồn hắn và ngay cả trong giây phút phản bội trâng tráo này Người vẫn gọi anh ta là một “người bạn”.

Đám đông vũ trang bắt giữ Chúa Giêsu thật hung bạo nhưng một người trong nhóm môn đệ, trong một hành động không thật sự quyết đoán, đã rút gươm ra và chém đứt tai tên đầy tớ của vị thượng tế. Trong trình thuật của Mátthêu, điều này trở thành cơ hội để Chúa Giêsu đưa ra lời khuyên dạy. Người nhắc nhở người môn đệ đừng lấy ác báo ác. Những người dùng gươm sẽ chết vì gươm. Trong Bài Giảng Trên Núi, Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ đừng đáp trả gian ác bằng bạo lực (5, 21-26, 38-42); một người con Chúa phải yêu thương ngay cả kẻ thù (5, 43-48). Nếu đây chỉ là việc phô trương sức mạnh, thì Thiên Chúa có thể trấn áp ngay những kẻ tấn công Chúa Giêsu với các đạo binh thiên thần dũng mãnh. Nhưng triều đại của Thiên Chúa như lời Sách Thánh nói, không có chỗ để bạo lực tác động. Lòng trung thành tuyệt đối của Chúa Giêsu sẽ dẫn Người đi vào thung lũng của sự chết, nhưng cuối cùng, lời Sách Thánh sẽ được ứng nghiệm và tình yêu sẽ chiến thắng bạo lực và sự chết.

Nhưng giờ đây quyền lực sự ác dường như đang thắng thế. Đối mặt với những đe dọa đó, các môn đệ cuống cuồng sợ hãi và bỏ rơi Chúa Giêsu cho những kẻ bắt giữ Người.

Chúa Giêsu chịu xét xử

26,57-27,10

Đám đông quân lính dẫn Chúa Giêsu đến Caipha là thượng tế, ở đó cũng có các kinh sư và kì mục đã tề tựu sẵn. Mátthêu mô tả đây là một cuộc “điều trần” chính thức, trong đó các nhà lãnh đạo lắng nghe những lời chứng chống lại Chúa Giêsu, thẩm vấn Người và cuối cùng kết án Người.

Ý nghĩa kịch tính của chủ ý đoạn Tin Mừng này rất là hiển nhiên. Toàn bộ cảnh Chúa Giêsu bị xử án, không sợ hãi phải đối mặt với những kẻ bắt giữ mình, được đóng khung trong câu chuyện ông Phêro chối Chúa. Trong khi các môn đệ khác đã chạy trốn trong cơn hoảng loạn rụng rời, ông Phêrô vẫn bám theo đám đông từ xa xa và theo dõi thầy mình đang bị cầm giữ trong sân vị thượng tế. Nhưng ở đây chút can đảm còn lại của ông vẫn không đủ thúc đẩy ông làm được gì hơn. Một người hầu gái nhận ra ông là đồng hương với Chúa Giêsu, người Galilê. Dưới cái nhìn soi xét kỹ lưỡng của nó, ông Phêro đã quá dễ dàng phủ nhận hoàn toàn sứ mệnh và ơn gọi môn đệ của mình, và buông ra một lời thề dứt khoát: “Tôi không biết người ấy”.  Chúa Giêsu đã từng cảnh báo các môn đệ không được thề và phải luôn nói sự thật rõ ràng (5, 33-37). Bây giờ ông Phêrô đã thề độc, và lún sâu vào những vấp ngã của mình. Vào chính lúc đó gà liền gáy và người môn đệ liền nhớ lại lời cảnh báo của Chúa Giêsu trong bữa ăn tối, ông tan nát cõi lòng. Sự vấp ngã nặng nề đã đè bẹp ông, Phêrô đi ra ngoài sân và khóc một cách thảm thiết.

Trong khi đó, Chúa Giêsu vẫn đứng trước vị thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng. Những lời tố cáo của các nhân chứng chống lại Chúa Giêsu không thực sự thuyết phục nên cuối cùng, vị thượng tế phải quay sang người đang bị cầm giữ vẫn thinh lặng và hỏi: “Ông có phải là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa không?” (26,63). Người đọc theo dõi căn tính Chúa Giêsu qua Tin Mừng, có thể trả lời ngay cho câu hỏi này: Chúa Giêsu được sinh ra bởi Chúa Thánh Thần; Người là Đấng mặc khải tất cả chân lí về Thiên Chúa và Người đem đến ơn chữa lành cho con người. Quả thật, người đang đứng đây thật sự là Đấng Messia muôn dân trông đợi, Đấng đem ơn cứu chuộc cho nhân loại và là Con duy nhất của Thiên Chúa.

Câu hỏi riêng của vị thượng tế lại nói lên sự thật mà chính ông không thể nhận ra. Chúa Giêsu tiếp tục nói tiên tri rằng Người sẽ được tôn vinh như Con Người, sẽ ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá trên mây trời mà xuất hiện vào lúc kết thúc thời gian (26, 64). Nhưng bây giờ cuộc khải hoàn đó chỉ hiển hiện trước mắt của những người có đức tin mà thôi. Còn đối với các nhà lãnh đạo, người này không phải là đấng cứu thế mà chỉ là một kẻ mạo danh và phạm thượng, đáng phải chết. Sự thù nghịch của họ tràn sang bạo lực và dẫn đến những lời nhạo báng thách thức, khiến họ nhổ nước bọt vào Chúa và tấn công Người, họ chế giễu Người đã tự tuyên bố là Đấng Messia (26, 67). Vào rạng sáng, hội nghị tái nhóm và họ chính thức kết án Chúa Giêsu phải chết và đưa Người đến Philatô, tổng trấn La Mã.

Trước khi Mátthêu kết thúc phân đoạn này, ngài lấy lại mạch chuyện về Giuđa (27, 3-10). Kẻ phản bội Chúa cảm thấy hối hận tột cùng, đã trả lại ba mươi đồng bạc cho các nhà lãnh đạo tôn giáo, công khai thú nhận hành vi phạm tội đổ máu Đấng vô tội khiến Người phải chết oan. Nhưng họ cự tuyệt anh, khước từ lời nhận tội của anh; và trong nỗi tuyệt vọng cùng cực, anh đã ném những đồng tiền vào đền thờ và tự kết liễu đời mình. Mặc dù các nhà lãnh đạo đã từ chối nhận tiền máu vào đền thờ, thì nó vẫn ám ảnh họ nặng nề. Họ thu thập các đồng tiền đó và sử dụng vào việc mua một thửa ruộng để làm nơi chôn cất khách ngoại kiều.

Biến cố bi thảm này trong Tin Mừng Mátthêu lặp lại một cách kỳ lạ câu chuyện của tiên tri Giêrêmia chương 19, trong đó nhà tiên tri đã đập vỡ cái bình sành của người thợ gốm trong một cánh đồng, để làm dấu hiệu nói về sự xét xử Giêrusalem, và cánh đồng ấy sẽ được dùng để chôn cất những người xa lạ. Một lần nữa đối với Tin Mừng Mátthêu, ngay cả những khoảnh khắc ghê tởm nhất của đời sống con người cũng không nằm ngoài kế hoạch chung của Thiên Chúa.

Đấng Messia bị xét xử

27,11-31

Câu chuyện về cuộc Khổ Nạn chuyển sang một phân đoạn mới khi Chúa Giêsu được đưa ra xét xử trước mặt Philatô, tổng trấn La Mã. Bây giờ chủ đề vương quyền và lòng trung thành xuất hiện.

Philatô hỏi Chúa Giêsu về xuất thân của Người như một vị vua, nhưng “người tù bí ẩn” này không trả lời câu nào trước những lời cáo buộc mà các nhà lãnh đạo đưa ra để kết án Người. Độc giả Kitô hữu biết rằng Chúa Giêsu thật sự là một vị vua, nhưng một vị vua không giống bất kỳ ai mà Philatô có thể hiểu.

Có một phong tục đã được thực hiện từ lâu, đó là vào mỗi dịp lễ Vượt Qua người ta phóng thích cho dân một tù nhân mà họ tự chọn. Philatô đưa ra cho đám đông dân chúng một sự lựa chọn: một là Baraba, tên tù nhân khét tiếng (27,16) hoặc là Chúa Giêsu. Các bản chép tay cổ xưa cho rằng Mátthêu có lẽ đã muốn làm nổi bật đáng kể, làm cho người ta chú tâm vào việc lựa chọn, bằng cách đặt Baraba thật sự là một tên trộm song song với Chúa Giêsu được gọi là Đấng Kitô. Ngài muốn nhấn mạnh đến tính cách bi thảm của hành động con người quyết tâm chọn cái ác.

Mỗi lần Philatô đưa ra lựa chọn đó, các nhà lãnh đạo và đám đông chọn tha Baraba và yêu cầu đóng đinh Chúa Giêsu. Mátthêu vẫn tiếp tục tấn thảm kịch này cho đến giây phút cuối cùng. Trong một cử chỉ gợi nhớ đến một nghi thức tuyên bố vô tội trong Đệ Nhị Luật chương 21, Philatô rửa tay và nói với đám đông: “Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các ngươi liệu lấy.” Đáp lại, toàn dân hô lên: “Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!” (27,24-25).

Trong gần hai nghìn năm qua, đoạn văn này đã bị hiểu sai một cách bi thảm như là một cái cớ để trừng phạt người Do Thái vì tội được cho là đã gây ra cái chết của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, người ta không thấy Mátthêu có ý định trình bày ở đây một lí do để lên án hay để đả kích ai. Chúa Giêsu, Con cháu Ápraham, Con vua Đavít, đã đến với dân của mình và, cũng giống như các tiên tri đi trước, Người đã bị khước từ. Tất cả sự đối kháng được chủ xướng bởi các nhà lãnh đạo lầm lạc bây giờ đạt đến đỉnh điểm trong câu chuyện cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu Trong khi Philatô một người dân ngoại tuyên bố Chúa vô tội, thì chính dân của Người lại sẵn sàng nhận trách nhiệm về máu vô tội của Người. Chủ yếu,  Mátthêu nhìn thấy ở đây một bước ngoặt lịch sử mà cuối cùng sẽ dẫn đến sứ vụ hướng về dân ngoại.

Nhưng có phải tác giả sách Tin Mừng có ý định đưa vào văn bản này một sự lên án vĩnh viễn người Do Thái là dân tộc của Người không? Chắc chắn không! Mátthêu chắc hẳn đã chê trách những người đương thời của Chúa Giêsu đã không mở lòng đón nhận Tin Mừng và thậm chí có lẽ đã giải thích sự phá hủy Đền thờ và thành Giêrusalem trong cuộc nổi dậy của người Do Thái năm 66-70 AD như là một dấu chỉ Thiên Chúa trừng phạt thế hệ đó (nghĩa là, “chúng tôi và con cháu chúng tôi”). Nhưng không có bằng chứng nào cho thấy văn bản này là một cái cớ để ủng hộ chủ nghĩa bài Do Thái, hoặc tin rằng dân Do Thái của Chúa Giêsu không nên được đối xử với cùng một lòng trắc ẩn, với sự tha thứ và công lý mà các môn đệ của Chúa Giêsu phải thể hiện với mọi người. Bởi vậy, Chúa Giêsu cũng thuộc về máu thịt dân Do Thái thì sao?

Chúa Giêsu vị vua bây giờ đã bị chính người dân của mình và chính quyền La Mã kết án. Những người lính chế nhạo uy quyền hão huyền của Người, chúng dùng các biểu tượng của quyền lực đế vương như  vương miện, vương trượng và các nghi thức tôn kính để chế giễu Chúa Giêsu. Nhưng độc giả chúng ta biết một sự thật khác: Chúa Giêsu đã được trao ban quyền năng của Thiên Chúa, không phải quyền lực để áp bức và quyền uy để thống trị; Người dùng uy quyền để ban ơn giải thoát, trao ban tình yêu, phục vụ và công lý.

Bình minh của Thời đại mới

27,32-66

Đỉnh cao của trình thuật cuộc Khổ Nạn của Mátthêu đan xen nhiều yếu tố kịch tính. Thánh giá của Người được ông Simôn người Kyrênê vác giúp, quân lính dẫn Chúa Giêsu tới Gôlgôtha để đóng đinh. Những kẻ thi hành xử án gắn một tấm bảng trên thập tự có ghi: “Người này là Giêsu, vua dân Do Thái”. Rõ ràng họ có ý định chế giễu kẻ xưng mình là cứu thế nhưng lại bị chết thảm bại. Rồi xuất hiện những kẻ “té nước theo mưa”, đó là một đám đông hỗn độn cũng cất lời nhạo báng Chúa, họ nhắc đến việc Người tuyên bố có quyền đối với đền thờ, chế nhạo Người đã tuyên bố rõ ràng có thể cứu người khác, nhưng chính giờ phút này lại không thể tự cứu mình. Ngay cả hai tên cướp bị đóng đinh cùng với Người, cũng lên tiếng báng bổ không ngớt lời.

Khi mô tả khoảnh khắc khủng khiếp này, Mátthêu một lần nữa trở lại với Sách Thánh Do Thái để lấy cảm hứng. Cũng như trong Tin mừng Marcô, lời cầu nguyện cuối cùng của Chúa Giêsu ở đây lấy từ Thánh vịnh 22, là lời cầu nguyện than thở bi thương. Trong bản văn sầu thảm này, một người Do Thái với đức tin chân thành cầu nguyện giữa lúc bị bỏ rơi, đau khổ và cô đơn. Ông bị bao vây bởi những người chế giễu niềm tin của ông vào Chúa. Cảm thấy ngay cả bị Chúa bỏ rơi, tác giả thánh vịnh thốt lên một lời cầu nguyện trong đức tin chân thực: “Muôn lạy Chúa, Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao?”  Đó là lời cầu nguyện tự phát, không phải suy nghĩ sâu xa mà Mátthêu đặt trên môi miệng Chúa Giêsu khi bầu trời bắt đầu tối sầm lại, Con Thiên Chúa trực diện cái chết.

Nhưng cũng như Thánh vịnh than thở này bất ngờ chuyển sang một bài thánh ca chiến thắng và ngợi khen (x. Tv 22, 23-32), thì cảnh tượng đóng đinh cũng biến thành một cuộc toàn thắng khải hoàn. Như thể Chúa Cha đã đáp lại âm thanh yếu ớt còn đọng lại trong lời cầu nguyện hấp hối của Chúa Giêsu: bức màn trong Đền Thờ bị xé làm đôi, trái đất rung chuyển dữ dội, những tảng đá bị vỡ ra và mồ mả thì  bật tung. Các vị thánh bấy lâu nằm yên trong mồ chết, giờ đây tiến vào thành thánh Giêrusalem trong một cuộc rước khải hoàn vinh thắng. Những người lính La Mã canh giữ mồ Chúa Giêsu vô cùng hoảng sợ, đã cất lời xưng tụng Chúa Giêsu thật sự là Con Thiên Chúa.

Tin Mừng Mátthêu phác họa qua cảnh chiến thắng này trong vinh quang rạng ngời của Đấng phục sinh. Khơi gợi lại thị kiến kì lạ về các bộ xương khô được hồi sinh của Edêkien (x. Ed 37,1-14), tác giả sách Tin mừng công bố rằng Thiên Chúa đã đáp đền cái chết rất mực trung thành của Chúa Giêsu bằng cách cho Người trỗi dậy từ cõi chết, cũng như tất cả các vị thánh của Israel từ buổi đầu lịch sử cho đến hôm nay. Dữ kiện động đất, việc những người chết trỗi dậy, tất cả đó là những dấu chỉ trong Kinh Thánh nói về ngày tận thế. Và theo một nghĩa chính xác nhất, cái chết của Chúa Giêsu đã đánh dấu sự kết thúc một thế giới cũ kĩ vô vọng để mở đầu một thời đại mới của Thần Khí Thiên Chúa.

Vẫn còn phải thuật lại những chuyện liên quan đến cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu, đó là lòng tôn kính của ông Giuse người thành Arimathê trong việc mai táng, những nỗ lực vô ích của những đối thủ Chúa Giêsu muốn đặt chuyện để giam hãm Người mãi trong cái chết, và cuộc viếng mồ Chúa của các phụ nữ trung thành. Nhưng trong Tin Mừng Mátthêu, những chi tiết này mang ý nghĩa phản diện, nó tạo một hình ảnh tương phản, bởi vì biến cố phục sinh bùng nổ ngay trên chính đồi Gôlgôtha, ngay vào lúc cái chết dường như chiếm ưu thắng. Lòng trung thành tuyệt đối, sự tin tưởng phó thác của Chúa Giêsu ngay cả khi phải đối mặt với những nhạo báng và bỏ rơi được đáp đền ngay lập tức bằng cuộc chiến thắng rạng rỡ và sự sống viên mãn.

Giuse Ngô Quang Trung