Phút lắng đọng Lời Chúa từ ngày 20.04 đến ngày 25.04.2020
20.04.2020
THỨ HAI TUẦN 2 PHỤC SINH
Ga 3,1-8
Lời Chúa:
“Chẳng ai làm được những dấu lạ Thầy làm, nếu Thiên Chúa không ở cùng người ấy”. (Ga 3,2)
Câu chuyện minh họa:
Một cuốn phim dịch theo sát nghĩa là: “Người Mưa” được tung ra thị trường phim ảnh cách đây mấy năm tại Hoa Kỳ. Tác giả muốn đề cao một tình thương được nẩy nở một cách bất ngờ giữa hai anh em Charley và Raymond.
Charley là một thương gia giàu có, còn Raymond là một người tàn tật từ nhỏ và được nuôi dưỡng trong trường đặc biệt điều trị những người bị câm điếc tinh thần, tức là thứ bệnh không thể diễn tả và giao thiệp với ai được. Charley vẫn không hay biết là mình có người em tên là Raymond và hơn nữa là một người tàn tật.
Thế rồi người cha qua đời. Cái chết của người cha đánh dấu một khúc rẽ mới trong đời sống của hai anh em. Trước khi nhắm mắt lìa đời, trong tờ di chúc, người cha đã ký lại cho Raymond, người con tàn tật một số tiền khổng lồ là 3 triệu mỹ kim, còn Charley sẽ là người đứng tên thừa kế một ngôi biệt thự rộng lớn. Charley rất ngạc nhiên trước lời trăn trối của người cha, và kể từ ngày đó anh tìm đủ mọi mưu kế, học mọi thủ đoạn để chiếm số tiền của em. Anh lý luận: dầu sao đi nữa, em mình là một người tàn phế như thế làm sao có thể tiêu xài hết một số tiền lớn như thế. Thực ra Charley nghĩ như thế là để bào chữa cho cái lòng tham của mình chứ thực sự thì Charly không thiết tha gì nghĩ đến em mình.
Cuốn phim được tiếp diễn với những thủ đoạn, những mưu mô khôn khéo để chiếm lấy được số tiền đó. Nhưng trớ trêu thay, chính trong những bận tâm ấy, Charly luôn luôn lúc nào cũng nghĩ tới người em hơn là bản thân mình. Đây là lần đầu tiên Charly lo lắng cho bản thân anh từ trước tới nay được thay thế bằng mối quan tâm lo lắng cho người khác. Anh cũng bắt đầu ý thức thêm rằng, anh đang quên mình đi và chỉ nghĩ đến người em, anh đang chết dần đi cho sự sống, cho bản thân mình mà chỉ nghĩ đến người em đáng thương ấy. Và như không ngờ anh như đã trở thành một người mới, một người trọn vẹn hơn với nhiều tình người trọn vẹn hơn, đậm đà hơn.
Suy niệm:
Câu chuyện trên gợi mở cho chúng ta về tình thương cho đi. Khi chúng ta chấp nhận từ bỏ ích kỷ của bản thân, chúng ta quan tâm đến người khác thì chính lúc đó tình yêu thương sẽ triển nở.
Nicôđêmô là một đầu mục của người Do Thái, là bậc cao niên đáng kính, có học thức và đạo đức. Thế nhưng ông vẫn tìm kiếm Chúa để được hướng dẫn. Hôm nay, trong cuộc nói chuyện với ông Nicôđêmô, cũng là điều Chúa mời gọi chúng ta phải thay đổi lối sống, thay đổi cách nghĩ, ra khỏi những u mê, và bước đi dưới ánh sáng của Lời Chúa.
Lạy Chúa, xin canh tân lòng trí chúng con để qua chúng con mọi người nhận ra dấu lạ của Chúa.
21.04.2020
THỨ BA TUẦN 2 PHỤC SINH
Ga 3,7b-15
Lời Chúa:
Ông Ni-cô-đê-mô hỏi Người: “Làm sao những chuyện ấy có thể xảy ra được?”. (Ga 3,9)
Câu chuyện minh họa:
Một tập san Công giáo Hoa Kỳ có đăng câu chuyện sau: Có đôi vợ chồng nọ chung sống với nhau đã được ba mặt con. Người chồng cũng là người Công giáo nhưng chủ trương trong đời chỉ đến nhà thờ hai lần: dịp lễ cưới, và ngày chết. Bà vợ trái lại là một tín hữu ngoan đạo và luôn lưu tâm cầu nguyện cho chồng. Thế nhưng lời cầu nguyện của bà hầu như vô vọng khi chồng bà đi làm ăn nơi xa và sống trong sa đọa trụy lạc. Dù vậy, bà vẫn không quên cầu nguyện cho chồng. Một đêm kia, bà bỗng nhận được điện thoại của chồng: “Em yêu dấu, đây là lần đầu tiên anh đã quì gối cầu nguyện, không phải trong nhà thờ, mà ngay tại chốn ăn chơi. Các bạn anh cười nhạo vì tưởng anh đã hóa khùng. Có thể đúng, anh đang khùng, nhưng là khùng vì Chúa Kitô. Anh đã trở về với Ngài”.
Suy niệm:
Lòng tin vào Thiên Chúa của người đàn bà trong câu chuyện như một sự an ủi bà; và trong tình thế dường như không còn cứu vãn, thì lúc đó Chúa lại ra tay cứu bà. Một sự đáp trả thật bất ngờ. Dù trong đêm tối của đức tin, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi con người, có một ánh sáng dẫn đường đó chính là Chúa Giêsu. Như xưa Môsê treo con rắn đồng trong sa mạc để dân Chúa được chữa lành, thì nay Con Một Thiên Chúa cũng bị giương cao để mọi người được cứu thoát. Nhưng để được như thế, điều kiện căn bản phải có chính là niềm tin. Niềm tin là chiếc cầu đưa con người từ đất lên trời: niềm tin là ngọn đèn soi tỏ ý nghĩa của mọi sự vật và mọi biến cố xảy đến.
Xin Chúa thêm đức tin nơi mỗi người chúng con, để những việc Chúa muốn làm nơi chúng con được hoàn tất.
22.04.2020
THỨ TƯ TUẦN 2 PHỤC SINH
Ga 3,16-21
Lời Chúa:
“Kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa”. (Ga 3,21)
Câu chuyện minh họa:
Tại Florence thuộc nước Italia, có một ngôi đại giáo đường, được kiến trúc rất đặc biệt. Ngôi đại giáo đường này có một vòm cầu lớn. Trên vòm cầu này có một lỗ nhỏ được ghép kính.
Kiến trúc sư vẽ kiểu ngôi đại giáo đường này, đã khéo léo tính toán thế nào, để cứ đến ngày 21 tháng 6 hàng năm, ánh sáng mặt trời sẽ chiếu vào lỗ nhỏ kia, rồi dọi xuống một miếng bạc, được ghép ở dưới nền giáo đường.
Người ta chỉ cần nhìn vào ánh sáng chiếu xuống từ mặt trời, qua lỗ nhỏ trên vòm cầu kia, rồi dọi xuống nền giáo đường là biết được độ nghiêng của ngôi giáo đường để mà sửa chữa, vì ngôi đại giáo đường này được xây trên một khu vực mà trước đây là vùng xình lầy.
Suy niệm:
Chúa Giêsu chính là ánh sáng chiếu soi thế gian để soi rọi những lầm lạc của con người. Thế nhưng thế gian lại không tiếp nhận ánh sáng ấy. Cũng như ngôi đại giáo đường để cho ánh sáng của mặt trời dọi vào làm cho chúng ta nhận ra độ nghiêng của nó, thì ánh sáng Giêsu cũng dọi vào thế gian, làm cho người ta thấy được những khiếm khuyết, tội lỗi của thế gian. Đời sống của chúng ta cũng cần có những cái vòm như ngôi giáo đường này để ánh sáng Chúa soi rọi vào tâm hồn, giúp chúng ta hoàn thiện mình hơn.
Lạy Chúa là ánh sáng muôn ngàn đời, xin soi sáng cõi lòng con để con luôn bước đi trong đường ngay nẻo chính mà đến cùng Chúa.
23.04.2020
THỨ NĂM TUẦN 2 PHỤC SINH
Ga 3,31-36
Lời Chúa:
“Người làm chứng về những gì Người đã thấy, đã nghe, nhưng chẳng ai nhận lời chứng của Người” (Ga 3,32)
Câu chuyện minh họa:
Có một ông nhà giàu kia. Ông có thú vui sưu tầm các bức danh họa trên thế giới. Những người đến thăm ông đều phải trầm trồ trước những bức tranh của Picassos mà ông đã không tiếc tiền mua chúng về treo. Ông có một đứa con trai duy nhất. Khi đến tuổi trưởng thành, chàng trai bị gọi nhập ngũ. Trong một trận chiến, anh đã anh dũng hy sinh khi cố gắng cứu mạng cho một đồng đội. Nhớ ơn anh, và biết người cha là một người thích tranh, người đồng đội được cứu sống đã vẽ lại bức tranh ghi lại hình ảnh hào hùng của người con để tặng cho người cha.
Một thời gian sau, người cha cũng qua đời và người ta bán đấu giá những tài sản của ông. Nhiều người từ khắp nơi trên thế giới tuốn đến mong có thể mua được những danh họa có một không hai.
Người trọng tài trong cuộc đấu giá bắt đầu bằng cách nói: “Chúng ta hãy khởi đầu từ bức tranh của người con”.
Một sự im lặng khó chịu bao trùm căn phòng đấu giá. Một tiếng nói cất lên: “Bỏ qua chuyện đó đi. Bức tranh đó do một tay hoạ sĩ nghiệp dư vẽ có đáng gì mà đấu giá. Đấu mấy bức của Picassos hay Rembrandts đi”.
Tuy nhiên, người trọng tài vẫn không nhượng bộ: “Không, chúng ta phải bắt đầu bằng bức tranh người con trước. Ai muốn lấy bức tranh của người con”.
Cuối cùng, một giọng nói cất lên từ cuối phòng: “Mười đồng”. Đó là tiếng người làm vườn già nua. Mười đồng là tất cả khả năng mà người làm vườn có thể trả nổi.
“Có người trả mười đồng. Có ai trả hơn không? Có ai trả hai mươi đồng không?”
Một sự im lặng nặng nề lại bao trùm, hy vọng bức tranh được bán cho mau để chuyển qua những món khác.
“Mười đồng lần thứ nhất. Mười đồng lần thứ hai. Mười đồng lần thứ ba. Bán”.
Người trọng tài gõ búa xuống. Ông xé một bao thư đi kèm với bức tranh. Đọc xong, ông tuyên bố với mọi người: “Cám ơn quý vị đã đến đây hôm nay. Cuộc đấu giá đã kết thúc”. Người trọng tài giải thích: “Nội dung bức thư của chủ nhân dặn rằng hễ ai mua bức tranh người con thì sẽ được tất cả tài sản, đất đai, tiền bạc và tất cả các bức tranh. Người cha đã muốn trao tặng tất cả cho những ai chấp nhận người con”.
Suy niệm:
Những khát vọng của con người không gì có thể lắp đầy được. Có những vị thánh đã đánh đổi cuộc đời để được Đức Kitô là tất cả, vì đối với họ chỉ có Đức Kitô mới có thể làm thỏa mãn những khát vọng.
Những người tham gia buổi đấu giá trên đây, nếu biết nội dung bức thư nói gì thì họ sẽ tìm mọi cách để giành cho được bức tranh ấy. Còn mỗi người chúng ta, biết rõ ý định của Thiên Chúa thực hiện nơi Đức Kitô, chúng ta có dám đánh đổi tất cả để được Người không?
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, xin cho con mạnh dạn loan báo tình yêu Chúa, dấn thân phuc vụ những bàn chân rả rời kiệt sức, cứu vớt những thân phận heo hắt đang bị hất hủi bỏ rơi,… để qua đó, con làm chứng cho niềm tin của mình.
24.04.2020
THỨ SÁU TUẦN 2 PHỤC SINH
Ga 6,1-15
Lời Chúa:
“Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.” (Ga 6,15)
Câu chuyện minh họa:
Vào một đêm không trăng, không sao, bóng điện đang hãnh diện tỏa ra thứ ánh sáng chói ngời.
Nó lia những tia sáng kiêu kì rạng rỡ đi khắp gian nhà. Chợt nó dừng lại ở góc bếp vì nhận thấy một vật gì nhỏ bé, đen đúa với khuôn mặt bám đầy mạng nhện đang đứng ở đó. Đó là Đèn Dầu. Bóng điện liền kênh kiệu hỏi: “Này tên kia, mi là ai thế, sao mi nhỏ bé, xấu xí hôi hám nữa? Mi nhìn ta đây này, vừa to lớn, vừa rực rỡ lại cực kì sang trọng. Ta thấy mi chướng mắt quá. Mi cút khỏi đây ngay!”
Đèn Dầu thản nhiên đáp lại: “Tôi biết mình nhỏ bé, bụi bặm, nhưng tôi không hèn mọn, không khoe khoang hống hách. Một ngày nào đó tôi sẽ cho anh thấy tôi là người hữu dụng, mọi người sẽ ưu ái tôi”.
Và một đêm kia, cũng lại là một đêm không trăng không sao nhưng cúp điện. Mọi người chẳng thấy Bóng điện đâu cả mà chỉ thấy một Đèn Dầu đang thầm lặng tỏa ra thứ ánh sáng cần thiết cho căn nhà nhỏ, tỏa ra những tia sáng tí tách reo ca. Bóng điện chết lặng trong bóng tối vì hổ thẹn, nó ngẫm ra rằng: Không ai hoàn hảo cả và cũng không nên lấy cái tốt của mình mà chế giễu cợt đùa phần chưa tốt của người khác. Cuộc đời này là những sự bù đắp diệu kỳ!
Suy niệm:
Chúa Giêsu lo lắng về vật chất cũng như tinh thần của con người. Ngài nhạy cảm với nhu cầu của con người. Để lắng nghe Ngài, họ cần phải no bụng. Đối với các môn đệ, đây cũng là bài học Ngài muốn các ông ngoài việc giảng dạy, các ông cần phải lo cho nhu cầu vật chất của dân Chúa nữa. Thế nhưng, Chúa cũng làm gương cho chúng ta, Người biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình. Trong thực tế, nhiều khi chúng ta cũng bị cuốn hút bởi những kết quả mình đạt được và vui thú với chúng, chúng ta quên đi mục đích chính của mình là phục vụ vì yêu thương.
Dưới ánh sáng của Chúa phục sinh, chúng ta hãy nhìn lại những việc bác ái của chúng ta, chúng ta làm với mục đích gì? Chúng ta có khiêm tốn như Thầy Chí thánh đã nêu gương chưa?
25.04.2020
THỨ BẢY TUẦN 2 PHỤC SINH
Thánh Marcô, tác giả sách Tin mừng
Mc 16,15-20
Lời Chúa:
“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.…” (Mc 16,15)
Câu chuyện minh họa:
Mẹ Têrêxa là một nữ tu người Anbani, được sai đến phục vụ người nghèo tại Ấn Độ. Đến Ấn Độ, thấy người nghèo khổ quá tội nghiệp. Biết bao người hấp hối ngoài lề đường. Chết rồi xác bị quẳng vào đống rác như xác thú vật. Biết bao trẻ thơ bị bỏ rơi. Biết bao gia đình chui rúc trong các căn nhà ổ chuột. Biết bao người đói khát không đủ cơm ăn áo mặc. Mẹ lăn xả vào phục vụ người nghèo.
Một hôm Mẹ đi thăm một ông già cô đơn trong căn lều tồi tàn. Bước vào lều Mẹ động lòng thương cảm. Vì tất cả đồ đạc chỉ là một mớ giẻ rách. Căn lều bụi bặm bẩn thỉu ngoài sức tưởng tượng. Và nhất là ông già thu mình lại không muốn giao tiếp với ai. Mẹ chào hỏi ông cũng không buồn trả lời. Mẹ xin phép dọn dẹp căn lều ông cũng làm thinh. Đang khi dọn dẹp, Mẹ thấy trong góc lều có một cây đèn dầu bụi bám đen đủi. Sau khi lau chùi, Mẹ kêu lên: Ô, cây đèn đẹp quá. Ông già nói: Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi ngày cưới. Từ khi bà ấy chết, tôi không bao giờ đốt đèn nữa. Thấy ông đã cởi mở, Mẹ Têrêxa đề nghị: Thế ông có bằng lòng cho các chị nữ tu mỗi ngày đến thăm và đốt đèn cho ông không? Ông đồng ý. Từ đó mỗi buổi chiều, các chị tới thăm ông, dọn dẹp nhà cửa, nói chuyện với ông. Ngọn đèn ấm áp trong căn lều ấm cúng. Ông trở nên vui vẻ hơn. Ông đã đi thăm mọi người. Mọi người đến thăm ông. Cuộc đời ông vui tươi trở lại.
Trước kia cuộc đời ông tăm tối không phải vì ông không thắp đèn. Nhưng vì ngọn đèn trong trái tim ông đã tắt. Trái tim khép kín nên ông mất niềm tin vào con người, vào cuộc sống. Ông nhìn mọi người như thù địch. Từ ngày các nữ tu đến đốt đèn đời ông vui lên, sáng lên. Đời ông sáng lên không phải vì có ngọn đèn dầu hoả soi sáng. Nhưng vì trái tim ông bừng sáng. Ngọn đèn tâm hồn ông rạng rỡ. Tâm hồn ông cởi mở và ông nhìn thấy mọi người là anh em. Thứ ánh sáng ấy ta thấy trong Phúc Âm. Khi người Samaritano nhân hậu cúi xuống săn sóc, băng bó vết thương cho người bị nạn bên đường. Hai người nhìn nhau. Một làn ánh sáng loé lên. Và họ nhận ra nhau là anh em.
Cứ như thế Mẹ Têrêxa miệt mài phục vụ người nghèo. Lập những trung tâm đón tiếp những người hấp hối, săn sóc để họ được chết, được chôn cất như một con người. Nuôi trẻ mồ côi. Xây bệnh viện. Xây trường học. Công việc càng ngày càng mở rộng. Số người theo Mẹ ngày càng đông và Mẹ đã lập dòng Nữ tử Thừa sai Bác ái chuyên phục vụ người nghèo. Hiện nay nhà dòng đã có mặt trên 132 quốc gia. Mẹ được thế giới biết tiếng. Mẹ được nhiều giải thưởng trong đó có giải Nobel Hoà bình. Năm 1997, khi Mẹ qua đời, 80 nguyên thủ quốc gia, trong đó có phu nhân tổng thống Mỹ Bill Cliton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac đã đến dự đám tang. Và nước Ấn Độ, đa số dân theo Ấn Độ giáo, vốn không ưa đạo Công giáo, đã chôn cất Mẹ theo nghi thức quốc táng. Hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn Mẹ về trời.
Suy niệm:
Đức Kitô phục sinh trao cho các môn đệ sứ điệp loan báo tin mừng Nước Thiên Chúa, ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu. Mẹ Têrêsa Calcutta đã sống triệt để lời mời gọi ấy. Mẹ đã quên mình, đưa những mảnh đời tối tăm tìm được ánh sáng, bằng việc thắp lên ánh lửa của niềm hy vọng, tin yêu, sưởi ấm lòng người. Và ánh sáng ấy làm sáng lên gương mặt nhân hậu của Chúa.
Hôm nay, thánh Maccô được Chúa mời gọi cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa, và đó cũng là lời mời gọi của mỗi người chúng ta. Dù trong công việc, chức vụ hay bậc sống nào, chúng ta cũng có thể làm chứng cho Chúa, làm lan tỏa ánh sáng tình yêu, hy vọng, và sức sống của Chúa Phục sinh cho mọi người.
Lạy Chúa, chúng con được sai đi mang tin vui, bình an, và niềm tin đến cho người khác, xin cho chúng con luôn ý thức như vậy để qua chúng con nhiều người nhận ra Chúa là Đấng đầy tình yêu thương và nhân ái.
Têrêsa Mai An
Gp. Mỹ Tho