SỐNG KHIẾT TỊNH Ở NGƯỜI TRẺ CHƯA KẾT HÔN: NHẬN ĐỊNH TRÊN PHƯƠNG DIỆN Y KHOA VÀ THẦN HỌC LUÂN LÝ CÔNG GIÁO
Mục lục
- KHÁI NIỆM VỀ CON NGƯỜI
- Con người là một động vật có lý trí
- Con người là hồn và xác
- Con người là một hữu thể xã hội và hữu thể tính dục
- KHÁI NIỆM CHUNG VỀ KHIẾT TỊNH
III. HIỂU BIẾT Y HỌC VÀ XÃ HỘI VỀ THÂN THỂ CON NGƯỜI
- Phân biệt giới tính bình thường trên phương diện y khoa
- Sự thay đổi của cơ thể trong thời kỳ dậy thì
- Cảm giác (Sensuality)
- Phân biệt từ ngữ và khái niệm về tình dục (sex) và tính dục (sexuality)
- Phương diện xung động tình dục của giới tính
- KẾT QUẢ CỦA VIỆC QUAN HỆ THÂN XÁC
- Khả năng thụ thai
- Hậu quả y khoa của việc mang thai sớm ngoài ý muốn
- “Trái đắng” của lối sống tình yêu buông thả
- GIÁO HUẤN GIÁO HỘI VỀ SỐNG KHIẾT TỊNH
- Khái niệm và “vẻ đẹp” của đức khiết tịnh
- Khái niệm về sự dâm dục
- Tại sao phải sống khiết tịnh
- Phẩm giá của nhân vị – Ý nghĩa của tính dục con người
- VÀI TỘI XÚC PHẠM ĐỨC KHIẾT TỊNH TRƯỚC HÔN NHÂN
- Tính luân lý của các hành vi dâm dục hoàn toàn hữu ý trực tiếp
- Tính luân lý của các hành vi dâm dục không hoàn toàn hữu ý trực tiếp
- Tính luân lý của các hành vi dâm dục không hoàn toàn hữu ý gián tiếp
- Thủ dâm
- Xem sách báo, phim ảnh “đen” (khiêu dâm)
- Quan hệ thân xác trước hôn nhân: Tội gian dâm
VII. LÀM SAO ĐỂ SỐNG KHIẾT TỊNH TRƯỚC HÔN NHÂN
- Sự cần thiết của rèn luyện thân thể.
- Chọn bạn để kết giao, thận trọng trong chọn lựa hình thức giải trí và nơi chốn giải trí
- Rèn luyện nhân đức và đời sống tinh thần, thiêng liêng.
- Cách thức đối phó với các cảm giác tình dục
WHĐ (18.2.2021) – Trên bia mộ của Thánh nữ Maria Goretti- có ghi hàng chữ “Maria Goretti, Sinh ngày 16.10.1890, tạ thế ngày 6.7.1902, Vì bảo toàn bông huệ khiết trinh”. Cô bé Maria Goretti 12 tuổi được tuyên phong thánh tử đạo vì cô bé liều chết để bảo vệ sự trinh khiết của mình. Các bạn trẻ, cách riêng các bạn trẻ Công Giáo hãy xác tín: khi phấn đấu giữ gìn sự trong sạch của thân xác, bạn đang trên đường trở nên con người viên mãn đích thực, nên THÁNH đó!
Các bạn trẻ có thể phản ứng: xưa rồi! Ngày nay xã hội tỏ ra “bình thường hóa” quan hệ thân xác ở các bạn trẻ chưa lập gia đình. Rõ ràng hiện tượng “góp gạo sống chung” ngày đang lan rộng trong xã hội Việt Nam cơ mà. Và rồi các bạn trẻ ca thán Giáo hội Công giáo dường như quá nghiêm khắc khi vẫn tiếp tục “điệp khúc” muôn thuở: phải giữ gìn sự trong sạch thân xác, chỉ được quan hệ thân xác sau khi kết hôn! Các bạn tự hỏi có phải Giáo Hội đang lạc lõng “cổ lỗ sĩ” giữa trào lưu sống hiện đại, Giáo hội không hiểu tâm tư nhu cầu của người trẻ?
Nhà khoa học vĩ đại nhất của thế kỷ 20, Albert Einstein đã nói: “Khoa học mà thiếu tôn giáo thì khập khiễng, Tôn giáo mà không có khoa học thì mù quáng”. Tôi sẽ không “áp đặt” lên các bạn những “giáo điều” đâu, mà mời gọi các bạn cùng tôi tìm hiểu vấn đề sống khiết tịnh ở người trẻ trước hôn nhân cả về mặt đời lẫn mặt đạo để tự các bạn suy tư và chọn lựa thái độ sống đúng đắn, và rồi các bạn có thể tìm được hạnh phúc của chính mình.[1]
I. KHÁI NIỆM VỀ CON NGƯỜI
Khó có quan niệm chính xác với nhiều tôn giáo khác nhau, tuy nhiên, hầu hết các tôn giáo đều có chung khái niệm về con người như:
1. Con người là một động vật có lý trí
Vậy, bạn phải sống hợp với lý trí, lẽ phải, nếu không, nói một cách khó nghe nhưng đúng là bạn sẽ chỉ sống ngang tầm mức động vật mà thôi!
2. Con người là hồn và xác
Vậy, những gì liên quan đến thân xác là liên hệ đến toàn bộ con người các bạn.
Con người là hồn và xác, hay “một tinh thần mang thể xác”. Thân xác cần thiết cho các hành vi tinh thần, hành vi tư duy. Không thể có tư duy mà không có sự giáo dục dần dần toàn diện thân thể. Con người sinh ra yếu đuối, nhưng mang theo khi chào đời cái khả năng tăng trưởng để rồi sau đó trổi vượt trên hết các thụ tạo khác. Ở bộ não con người, có một sự dung hợp bổ sung cho nhau giữa các yếu tố di truyền bẩm sinh và các yếu tố thụ đắc từ học tập, kinh nghiệm trong cuộc sống. Nhờ vậy con người phát triển không ngừng.[2]
Trong đời sống, tinh thần và thể xác gắn liền mật thiết với nhau. Sức khỏe tốt là khả năng cảm nhận sự thoải mái về hai phương diện thể xác và tinh thần.[3] Ngày nay khoa học chứng minh được rằng tinh thần và thể xác ảnh hưởng qua lại lẫn nhau một cách chặt chẽ. Các yếu tố tâm lý cảm xúc tác động mạnh mẽ đến hệ thống miễn nhiễm (cơ chế phòng chống bệnh tật chính của cơ thể). Những tình cảm tích cực như yêu thương, yên ổn, thỏa mãn trong công việc và tin tưởng dường như tăng cường khả năng chống đỡ của hệ thống miễn nhiễm, giúp cơ thể tránh được bệnh. Trái lại các tình cảm tiêu cực, âm tính như lo âu, căng thẳng, thất vọng, chán nản…có xu hướng làm suy yếu hệ thống miễn nhiễm, và do đó giảm khả năng chống đỡ bệnh tật của cơ thể.[4]
Thân xác con người truyền thông được sức mạnh thần linh, tình cảm tôn giáo. “Con mắt là cửa sổ của tâm hồn”. Như thế, “Linh hồn đào tạo và giáo dục thân xác của mình để có thể tự nắm bắt bản thân nó; còn thân xác thì dùng hành động của mình giúp cho linh hồn tự nhận biết mình và diễn tả chính mình. Như vậy, linh hồn là một tinh thần ý thức về mình bằng cách xây dựng thân xác mình trong tương quan với chính mình và với thế giới”.[5]
Khi chúng ta nhìn nhận thân xác ta chính là ta đó, chúng ta sẽ nhìn thân xác của nhau một cách nghiêm túc và trân trọng. Khi chúng ta ý thức rằng các tương quan chúng ta phụ thuộc vào thân xác chúng ta, thì chúng ta cũng ý thức rằng tất cả các diễn tả của thân xác như một nụ hôn, một sờ chạm, một vòng ôm, một nụ cười, một ánh mắt, một bắt tay siết chặt…truyền thông cái chính yếu của sự khác nhau của các tương quan.
3. Con người là một hữu thể xã hội và hữu thể tính dục
Con người sống trong thế giới với các mối tương quan trách nhiệm với chính mình, với gia đình, làng xóm, cộng đồng xã hội, trong tư cách là người nam hay người nữ. Con người không thể tự do làm mọi điều mình thích, mà phải nhận định xem hành vi chọn lựa của cá nhân tác động tích cực hay tiêu cực như thế nào trên chính bản thân, gia đình, người thân, và xã hội.
II. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ KHIẾT TỊNH
Khiết tịnh là sức mạnh nội tâm giúp con người kiểm soát những đòi hỏi tình dục. Khiết tịnh đòi hỏi sự tiết dục trên bình diện thể lý, nhưng cũng đòi buộc trên bình diện ý chí và tưởng tượng. Khiết tịnh phải căn bản là một đời sống tinh thần, từ khước các tư tưởng và hành động không phù hợp với nguyên tắc luân lý và giáo huấn tôn giáo về tính dục. Tiết dục chỉ là bước bên ngoài của khiết tịnh, cần được hoàn bị và hướng dẫn bởi thái độ nội tâm trong sạch bên trong. Như vậy trên quan điểm nhân học, khiết tịnh bao hàm : sự trong sạch của thân xác, sự liêm chính của trí tuệ và sự khả ái của tinh thần.
Sống khiết tịnh là tôn trọng thân xác. Một điều cụ thể cho các bạn thanh thiếu niên: tôn trọng thân xác là không quan hệ tình dục trước hôn nhân, ngoài hôn nhân. Chúng ta sẽ giải thích lý do ở các phần sau.
III. HIỂU BIẾT Y HỌC VÀ XÃ HỘI VỀ THÂN THỂ CON NGƯỜI
1. Phân biệt giới tính bình thường trên phương diện y khoa
Xin tham khảo thêm phần này trong bài “Chuyển giới tính: Một nhận định trên phương diện khoa học và luân lý Công Giáo”, Hiệp Thông số 99 (tháng 3 và 4 năm 2017).
Một cách khái quát, giới tính bao gồm năm khía cạnh: bộ nhiễm sắc thể, cơ quan sinh dục bên trong, bộ phận sinh dục ngoài, nội tiết tố (hormone) giới tính, và tâm lý giới tính. Ngoài ra, có thể kể thêm đặc tính phụ của giới tính. Ở một con người bình thường, năm khía cạnh này cùng với đặc tính phụ giới tính phải thống nhất và hài hòa.
Nguồn gốc con người với hai giới tính khác nhau và bổ túc cho nhau, cũng đồng thời là ơn gọi tự nhiên của chúng ta sống yêu thương, hiệp thông với nhau và hướng đến sự sống viên mãn.
2. Sự thay đổi của cơ thể trong thời kỳ dậy thì
“Nữ thập tam, nam thập lục” là một câu nói thời xưa muốn ám chỉ về độ tuổi dậy thì ở nam và nữ, nhưng ngày nay, tuổi dậy thì có thể bắt đầu sớm hơn do yếu tố môi trường, ngoại cảnh tác động trên tâm trí và thể lý các em. Một giai đoạn khiến trẻ thay đổi cả về tâm lý, sinh lý và ngoại hình, biến những cô bé thành những thiếu nữ xinh đẹp, thân mình uyển chuyển, những cậu trai nhỏ trở nên trưởng thành hơn, chín chắn hơn, nam tính hơn…
Nội tiết tố có thể xem như là các sứ giả hóa học thông tin cho các mô (tissues) trong cơ thể để mang lại các sự thay đổi chuyển hóa khác nhau. Ở người nữ, nội tiết tố sinh dục là oestrogen và progesterone. Dấu hiệu rõ nét đánh dấu thời kỳ dậy thì ở người nữ là hiện tượng kinh nguyệt. Bắt đầu từ khi ấy, người nữ có thể thụ thai nếu quan hệ thân xác.
Tinh hoàn ở người nam sản sinh tinh trùng và androgens là các nhóm nội tiết tố sinh dục nam. Các nội tiết tố này thiết yếu cho chức năng tình dục và sinh sản. Nội tiết tố tình dục chủ yếu của nam là testosterone, chịu trách nhiệm cho quá trình dậy thì, gây xung động tình dục và chức năng tình dục. Dấu hiệu rõ nét đánh dấu thời kỳ dậy thì ở người nam là hiện tượng “giấc mộng ướt”.[6] Khi bắt đầu có hiện tượng này, người nam có thể truyền sinh nếu quan hệ thân xác.
Tuyến yên, một tuyến nhỏ nằm trong não, kiểm soát bài tiết nội tiết tố của tinh hoàn (ở nam) và buồng trứng (ở nữ). Tuyến yên điều khiển tinh hoàn hay buồng trứng thông qua hai nội tiết tố: – Luteinising hormone (LH) và Follicle stimulating hormone (FSH) – cũng được gọi là gonadotrophins. Tuyến yên lại chịu sự kiểm soát của một tuyến lân cận cũng nằm trong não, gọi là tuyến dưới đồi. Vậy, bất cứ rối loạn nào ở tinh hoàn, buồng trứng, tuyến yên, tuyến dưới đồi đều có thể gây rối loạn sản sinh nội tiết tố nam hay nữ, và từ đó có thể ảnh hưởng tâm sinh lý giới tính. Vùng vỏ của tuyến thượng thận còn tiết ra androgen.
Cấu trúc cơ thể và nội tiết tố ảnh hưởng lên tâm lý, tình cảm, một cách tự nhiên người nam và người nữ thường thấy được hấp dẫn lẫn nhau.
Những thay đổi cảm xúc ở tuổi dậy thì: bạn nam bắt đầu kinh nghiệm thôi thúc tình dục nhiều hơn và suy nghĩ về điều này. Bạn nữ cũng có thể bắt đầu thương nhớ vu vơ. Đây cũng là một giai đoạn đầy biến động tâm trạng, “sớm nắng chiều mưa”, thời gian một phút trước có thể cảm thấy phấn chấn, và những phút sau lại tự dưng thay đổi rơi vào một tâm trạng buồn phiền.[7] “Tôi buồn mà không biết vì sao tôi buồn”. Chính vì điều này, và nếu trong hoàn cảnh gia đình ba mẹ không hạnh phúc, các bạn trẻ dễ bị lôi cuốn vào tình yêu tạm bợ, lẫn trốn nỗi cô đơn buồn phiền trong các quan hệ thân xác.
Vài thay đổi theo chu kỳ kinh nguyệt người nữ
Giai đoạn rụng trứng ở giữa chu kỳ kinh nguyệt, lúc mà người nữ thấy nhiều chất nhầy như lòng trắng trứng xuất tiết ở âm đạo. Đó là lúc thường người nữ có thể cảm thấy những ước muốn đòi hỏi của xác thịt. Lúc có kinh nguyệt, tức là bắt đầu một chu kỳ kinh mới, người nữ thường cảm thấy mệt mỏi, yếu đuối hơn, muốn nghỉ ngơi và cần được nghỉ ngơi, muốn được yêu thương chăm sóc hơn.
Vài đặc điểm sinh lý của người nam
Dương vật (penis) có thể trở nên cương cứng một cách tự động khi người nam trong trạng thái ngủ say. Đây là hiện tượng sinh lý tự nhiên bình thường. Điều này có thể xảy ra dù người đó có đang mơ hay không, và dù giấc mơ có hay không có liên quan đến tình dục. Vậy không nên xấu hổ. Đôi khi dương vật có thể cương lên (ngoài sự kiểm soát của ý chí) khi bị sờ chạm.
3. Cảm giác (Sensuality)
Cơ thể có sự vui thú từ cảm giác nhận từ năm giác quan.
Sờ chạm: toàn cơ thể nhạy cảm với sờ chạm và lực ép. Cảm giác chúng ta cũng liên quan đến nhu cầu được ôm ấp, thèm ôm, thèm hôn, thèm vuốt ve và được vuốt ve, gọi là “cơn đói của da thịt” (skin hunger). Theo kinh nghiệm của nhiều nhà thiêng liêng, bàn tay của người nam là một dụng cụ chinh phục mà ít phụ nữ nào thắng được. Bàn tay của người nam rất tham lam. Nếu được chấp nhận, các vuốt ve có đặc tính đi tới, tăng “cường độ” sau mỗi lần gặp gỡ, đi từ vuốt ve ngoài áo đến vuốt ve trong áo, và cuối cùng thì ngay cả áo quần cũng không còn. Thường những động tác này đi trước khởi hứng hành vi giao hợp. Ban đầu có thể người nữ phản kháng, và ray rức lương tâm. Nhưng sau khi chịu rồi thì không còn sức phản kháng. Đặc tính của thân xác là có “bộ nhớ” trên da thịt. Rồi thì sau đó chính người nữ muốn như thế, bị nô lệ cho nhu cầu cảm xúc thân xác.
Ngửi: có những mùi hương gây kích thích, thèm muốn tình dục. Từ xưa đến nay người ta luôn tìm bào chế hương liệu dùng trên thân thể, giúp thân thể thêm sức quyến rũ.
Nhìn: thường là khởi đầu của sự thèm muốn. Những ưa thích đặc biệt về hình ảnh có thể thay đổi từ người này sang người khác. Não bộ có khả năng tưởng tượng, phóng đại về các cử chỉ tình dục tuy người đó không thực hành. Xem phim ảnh khiêu dâm rất nguy hại vì các hình ảnh tác động trên trí tưởng tượng. Nhiều người không kiềm chế được bản thân khi xem các phim ảnh trụy lạc. Dù tác hại nhẹ, có người cần thời gian lâu mới xóa bỏ được những hình ảnh dâm dục của phim ảnh trong đầu óc của mình.
Hình ảnh về chính cơ thể chúng ta cũng là một phần cảm nhận của chúng ta. Chúng ta cảm thấy mình hấp dẫn hay tự hào về cơ thể chúng ta ảnh hưởng trên nhiều phương diện của đời sống chúng ta. Các bạn trẻ chú ý cách ăn mặc, vì áo quần cũng nói lên được một nét tâm hồn. Ông bà chúng ta thường nói “cái nết đánh chết cái đẹp”. Cái đẹp tâm hồn mới nối kết con người với nhau thật sự và bền lâu.
Nếm: Trong các nơi ăn chơi, có các loại thuốc kích thích. Rượu bia thường làm cho con người dễ mất lý trí và không còn khả năng kiềm chế. Đã có một vài bạn nữ mất đời trinh trắng vì tin lầm bạn trai mới quen, bị cho uống thuốc ngủ trong buổi gặp gỡ hẹn hò.
Nghe: vài loại thơ, nhạc, cũng có thể gây kích thích. Phụ nữ thèm muốn bằng lỗ tai, thích nghe những lời âu yếm mật ngọt, lời khen tặng. Từ ngữ cũng có sức nặng đáng kể. Tâm hồn con người có thể được nâng cao nếu nghe bài hát tâm tình thánh thiện, hoặc ngược lại thân xác thấy rạo rực thèm muốn nếu nghe nhạc gợi dục.
Sự thân thiết và tương quan (intimacy & relationship) : khả năng yêu thương, tin cậy, chăm sóc cho người khác dựa trên mức độ thân thiết của chúng ta. Chúng ta học thân thiết từ các tương quan quanh ta, đặc biệt trong gia đình. Để có sự thân thiết thực sự với người khác, cần phải cởi mở, chia sẻ cảm giác và những thông tin cá nhân. Như vậy, khi làm điều này, chúng ta nên nhìn trước khả năng của sự thân thiết có thể xảy ra.
4. Phân biệt từ ngữ và khái niệm về tình dục (sex) và tính dục (sexuality)
Tình dục và tính dục liên quan mật thiết với nhau nhưng là hai thực tại khác nhau. “Tình dục” chỉ đến những phương diện sinh học-thể lý của người nam hoặc nữ, hoặc những hành vi thể lý, đặc biệt hành vi sinh dục đưa đến thỏa mãn khoái lạc, vui thú thể lý. “Tính dục” tuy có bao gồm tình dục, nhưng chỉ ra chiều hướng chủ yếu, nhân vị của toàn thể con người, mà qua đó chúng ta, là nam hoặc nữ, dấn thân vào các mối tương quan với chính chúng ta, với người khác, với thế giới và ngay cả với Thiên Chúa. Như vậy, khái niệm tính dục rộng và sâu hơn tình dục.[8]
5. Phương diện xung động tình dục của giới tính
Tình dục đôi khi là một thúc bách sinh lý mạnh mẽ. Cần chú ý rằng tình dục là một năng lực bao gồm các quá trình kích động như chọn lựa quyết định, cảm xúc, và mọi hình thức giác quan của hành động, tự biểu lộ như tình yêu và ước muốn. Tình yêu có thể được bộc lộ mà không cần tình dục, và các biểu thị thúc bách của tình dục không phải luôn gắn liền với tình yêu. Một số người nữ sai lầm khi thấy có người nam đòi hỏi tình dục nơi mình, lại tưởng rằng vì người ấy yêu mình. Đặc điểm của xác thịt khi đã đụng đến rồi thì khó mà thoát khỏi, vì thân xác lúc ấy được khơi dậy, đòi hỏi. Người ấy lúc đó nhớ xác thịt mà lại ngộ nhận là tình yêu.
Thông thường, các vùng nhạy cảm là những vùng liên quan đến bộ phận sinh dục ngoài, tai, cổ…Tuy nhiên, cơ thể mỗi người mang các vùng nhạy cảm, khoái cảm đặc biệt khác nhau, tùy lịch sử và cơ thể cá nhân mỗi người. Một cử chỉ có thể bình thường đối với người này lại có thể mang một lực khoái cảm mạnh cho người khác. Vậy nên, sự dè dặt thận trọng thật là quan trọng khi ta không biết lịch sử người kia.
Mặc dù thường được tin rằng người nam có xung động tình dục mạnh hơn người nữ, thực sự điều này thay đổi tùy người. Cả nam nữ đều có thể có xung động tình dục cường độ mạnh yếu khác nhau tại các thời điểm khác nhau. Là điều lành mạnh và bình thường cho người nam người nữ có ước muốn tình dục và diễn tả chúng, nhưng cả nam nữ đều không cần có tình dục để duy trì sức khỏe. Là điều lành mạnh cho người nam người nữ có ước muốn tình dục và diễn tả chúng, nhưng điều quan trọng là quan hệ tình dục chỉ có thể xảy ra trong bối cảnh hôn nhân- TẠI SAO?? Các bạn trẻ hãy quan sát vài sự kiện khoa học và xã hội.
IV. KẾT QUẢ CỦA VIỆC QUAN HỆ THÂN XÁC
1. Khả năng thụ thai
Khi người nam và người nữ giao hợp, có khoảng 200 đến 600 triệu tinh trùng được đặt vào cổ tử cung và túi cùng âm đạo. Các tinh trùng di chuyển đi qua kênh cổ tử cung, lòng tử cung, loa vòi- là vị trí sự thụ tinh thường xảy ra. Nếu giao hợp vào đúng thời kỳ người nữ rụng trứng, tinh trùng có thể kết hợp với trứng và tạo thành phôi thai. Theo hiểu biết khoa học, ngay lúc nhân của tinh trùng hợp nhất với nhân của noãn thành một thì bắt đầu sự sống của một hữu thể người mới.
2. Hậu quả y khoa của việc mang thai sớm ngoài ý muốn
Theo điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam năm 2009, tỷ lệ nạo phá thai ở vị thành niên trên tổng số ca sinh khoảng 20%.[9] Kết quả khảo sát tại hai bệnh viện Từ Dũ, Hùng Vương và Trung tâm Chăm sóc sức khỏe sinh sản thành phố Hồ Chí Minh (TP HCM), có 4/100 phụ nữ mang thai và sinh con ở độ tuổi từ 13 đến 17. Sau một năm khảo sát thai phụ và sản phụ sinh sống tại TP HCM, nhóm nghiên cứu ghi nhận trong 90.649 ca sinh thì hơn 2.400 bà mẹ ở tuổi vị thành niên. Khoảng 3.500 trong 60.352 ca phá thai là thai phụ trẻ tuổi có thai ngoài ý muốn. Phân tích các yếu tố nguy cơ, nhóm nghiên cứu nhận thấy phần lớn trường hợp phá thai và sinh con ở tuổi vị thành niên thường quan hệ tình dục sớm, không có kiến thức giới tính và ít tâm sự với cha mẹ.[10]
Mang thai ngoài ý muốn dẫn đến nạo phá thai, tảo hôn, kết hôn cận huyết là vấn đề lớn mà trẻ vị thành niên nước ta đang phải đối mặt.[11] Theo số liệu toàn cầu trong năm 2015, số trẻ em kết hôn khi chưa đủ 18 tuổi cao nhất là khu vực Châu Á – Thái Bình Dương với 59 triệu; tiếp theo là Đông Á và Nam Á… Mỗi ngày tại các nước đang phát triển có 20.000 trẻ em gái độ tuổi 15-17 sinh con; ước tính số ca nạo phá thai không an toàn ở trẻ em gái tuổi 15-19 là 3,2 triệu. Tự tử và biến chứng thai sản là hai nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở trẻ em gái lứa tuổi này…[12]
Một số bạn nam thừa nhận chính họ có gợi ý việc quan hệ tình dục, không thích áp dụng biện pháp tránh thai, và giao hợp là sự đồng ý của cả hai. Hầu hết các em nữ mang thai sớm thú nhận ngoài việc không có kiến thức giới tính, còn là do bạn tình trấn an “chắc không dính thai đâu”.
Theo y khoa, độ tuổi đủ sức làm mẹ ít là phải 20. Tuổi thai phụ càng nhỏ thì các biến chứng trong sinh sản càng cao. Nguy hiểm nhiều hơn là các trường hợp phá thai khi thai đã lớn, có thể gây rách, thủng tử cung gây chảy máu, đôi khi phải cắt bỏ tử cung, thậm chí mất mạng sống hoặc viêm tắc vòi trứng dẫn đến vô sinh.
Bệnh ung thư lây truyền qua đường sinh dục
Giáo sư Harald zur Hausen, người đoạt giải thưởng Nobel y học 2008, cho biết hai loại virút HPV (Human papillomavirus) 16 và HPV18 đã được tìm thấy ở 70% sinh thiết ung thư cổ tử cung trên toàn thế giới. Hơn 5% ung thư trên toàn thế giới gây ra bởi sự lây nhiễm dai dẳng của HPV, lây nhiễm qua đường tình dục phổ biến. HPV ảnh hưởng đến 530.000 phụ nữ mỗi năm, hầu hết ở các quốc gia đang phát triển.[13]
Nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục
Một người có thể bị lây nhiễm và có khả năng lây cho người khác mà không lộ ra một dấu hiệu bệnh nào. Bệnh lây truyền qua đường tình dục trước kia còn gọi là bệnh hoa liễu, bệnh phong tình (vì thường gặp ở gái mại dâm), là bệnh có xác suất truyền từ người sang người thông qua các hành vi tình dục. Các tác nhân lây truyền có thể là vi khuẩn, virus, nấm, ký sinh trùng. Nhiều bệnh hoa liễu dễ dàng truyền nhiễm thông qua các màng nhầy (mucous membrane) của dương vật, âm hộ, trực tràng, đường tiểu và một số đường khác nhưng ít phổ biến hơn (tùy thuộc vào loại nhiễm trùng và cách thế tiếp xúc tình dục): miệng, họng, đường hô hấp và mắt.
Bạn trẻ có thể chống chế: chúng tôi đã có các phương tiện ngừa thai nhân tạo như bao cao su, thuốc ngừa thai, đặt vòng tử cung…!
Về mặt y-khoa, ngừa thai nhân tạo có thể gây một số biến chứng đáng kể như chảy máu tử cung, thủng tử cung, nhiễm trùng, do đặt vòng, có trường hợp mang thai cùng với vòng trong tử cung gây nguy hiểm cho thai phụ và cả thai nhi.[14] Các loại thuốc ngừa thai có thể gây tăng cholesterol toàn phần, tỉ lệ HDL/LDL cholesterol, và triglycerides, điều này sẽ ảnh hưởng xấu đến bệnh lý tim mạch; thuyên tắc tĩnh mạch; giảm dung nạp đường gây biểu hiện lâm sàng tiểu đường của những người có nguy cơ tiểu đường hoặc triệu chứng nặng hơn trên người có sẵn tiểu đường; một số có thể gây tăng sản ở gan, ung thư cổ tử cung. Theo kinh nghiệm lâm sàng, phụ nữ đặt vòng trên năm năm dễ vô sinh thứ phát do nội mạc tử cung bị viêm lâu ngày.Khả năng gây ung thư vú của các thuốc ngừa thai hiện nay chưa xác định rõ, nhưng FDA (Food and Drug Administration) vẫn cảnh giác khuyến cáo thầy thuốc cẩn thận theo dõi ung thư vú ở những người sử dụng thuốc ngừa thai.[15]
Về mặt xã hội, việc phổ biến sử dụng các biện pháp ngừa thai sẽ khơi mào sự coi thường các chuẩn mực luân lý, sự bất trung trong đời sống hôn nhân. Thật thế, tỉ lệ thanh thiếu niên tự do quan hệ tình dục, phá thai, ly dị, gia đình tan vỡ, bạo lực gia đình, bệnh lây truyền qua đường sinh dục, và các con cái ngoại hôn, đã gia tăng một cách đáng sợ từ khi các biện pháp ngừa thai nhân tạo, đặc biệt là viên thuốc ngừa thai được phổ biến và cổ vũ.[16] Công bằng mà nói, các biện pháp ngừa thai nhân tạo không phải là nguyên nhân duy nhất trong thảm kịch này; tuy nhiên nó có vai trò chủ chốt.
Người nam sẽ không tôn trọng người nữ như một bạn đời đáng yêu thương và trân quý, không quan tâm đến quân bình tâm sinh lý của người nữ, mà xem người nữ chỉ như một phương tiện thỏa mãn dục vọng cá nhân ích kỷ của người nam. Việc ngừa thai được quảng cáo là giải phóng phụ nữ, nhưng thực tế ngược lại. Các biện pháp ngừa thai nhân tạo đã giải thoát nam giới khỏi phải chịu trách nhiệm về hành động tình dục của mình. Thân xác phụ nữ bị thương mại hóa, trở thành món giải trí tiêu khiển cho nhiều người.[17]
Điều cần lưu ý các bạn trẻ, nhất là các bạn gái:
– Các mối quan hệ dựa trên tình dục kết cuộc chỉ là những gì mất mát.
– Sự gắn bó, cảm thấy cần nhau về mặt cảm xúc, hậu quả từ việc quan hệ thân xác, thật sự rất mãnh liệt. Gắn bó ở đây không có nghĩa là yêu thương, mà là cảm thấy cần người ta vì nỗi nhớ “da thịt”.
– Oxytocin, một loại hormone tạo sự “gắn bó”: theo những nhà nghiên cứu y khoa, oxytocin có thể là lý do làm cho con gái, và cả con trai cảm thấy sự gắn bó về mặt cảm xúc khi đã có quan hệ thân xác. Chất oxytocin được tạo ra khi có quan hệ hưng phấn tình dục, và gây ra một cảm xúc rất lớn về sự gần gũi, nuôi dưỡng cảm xúc và làm cho người ta cảm thấy cần nhau. Ở người nam, lượng oxytocin này ít hơn người nữ, vì thế nam giới kinh nghiệm cảm xúc nhiều khi không cao độ bằng nữ giới. Trong lúc phái nữ cảm thấy có tình cảm sâu xa và gắn bó chặt chẽ với người bạn tình. Đàn ông có thể tách rời tình dục và tình yêu. Còn phụ nữ thì nhiều khi cảm biết sự lạnh nhạt, cảm thấy chua xót trong quan hệ, dù ray rức hối hận, dù tủi nhục vì sự xúc phạm…vẫn khó mà dứt được mối quan hệ đã đi sâu về mặt tình dục. Như thế, người nữ đã trở thành “nô lệ” cho nhu cầu thân xác đến mức đánh mất lòng tự trọng.
Người đời nay có khuynh hướng hạ thấp tính dục thành tình dục đơn thuần. Ngược lại, hiểu biết con người là hồn và xác sẽ giúp ta nhận thức rằng ở con người, tình dục luôn được bao hàm trong toàn bộ con người, ở mức độ tính dục. Con người khác với con vật ở chỗ tình dục con người quá cao, quá thánh thiêng, không thể bị quẳng đi bởi những tư tưởng tầm thường. Dâm dục tạo nên tình dục xấu bởi vì nó bỏ qua tương quan giữa người với nhau. Dâm dục biến người khác thành một đồ vật, không phải một nhân vị. Xã hội ngày nay thương mại hóa thân xác, đặc biệt thân xác phụ nữ, thường dùng thân xác phụ nữ để quảng cáo, giải trí, kiếm tiền. Hành vi tương quan thân xác ngoài hôn nhân làm hạ phẩm giá người bạn mình, và mang ý nghĩa của sự dâm dục. Trong hôn nhân, hành vi giao hợp khiến cả hai nên “một thịt”, như vậy, tinh thần họ cũng trở nên một. Văn hóa Việt Nam, ngôn từ vợ chồng gọi nhau là “mình”, diễn tả hiểu biết này.[18] Sự kết hợp thân xác yêu thương vợ chồng không xóa bỏ tính cá thể của thân xác, nhưng lại hợp nhất tinh thần cả hai nên một. Đây là một mầu nhiệm.[19] Tính dục chúng ta nối kết chặt chẽ với hiểu biết chúng ta là ai (who we are). Là con người, chúng ta có lý trí và phải dùng lý trí hướng dẫn hành động, chọn lựa luân lý xứng với nhân phẩm. Hành vi thân xác có khả năng đưa đến sự ra đời của đứa con. Phẩm giá của đứa con đòi hỏi nó phải được sinh ra trong bối cảnh hôn nhân gia đình có cha có mẹ, phải được cha mẹ cùng nhau yêu thương nuôi dưỡng giáo dục.
3. “Trái đắng” của lối sống tình yêu buông thả
Làm bác sĩ 30 năm, tôi gặp và giúp nhiều trường hợp cô gái chưa chồng đi khám thai và các cô thật đơn độc lúc ấy. Hiếm khi các cô được bạn trai cùng đi khám, mà phần lớn là một mình, đôi khi có mẹ, hoặc chị, hoặc bạn gái đi cùng. Cùng thực hiện một hành vi nhưng cuối cùng dường như chỉ có người nữ gánh chịu hậu quả. Theo thống kê, một số lớn các bạn nam người Việt hiện nay, khi yêu thì đòi bạn nữ “yêu là cho tất cả”, nhưng khi kết hôn thì đòi người bạn đời phải còn trinh khiết! Thật ra, chính các bạn nam khi thành thực đối diện với lương tâm, cũng không thể bình an với hậu quả cay đắng mà mình đã gây ra cho bạn gái.
Báo tuổi Trẻ online ngày 13/04/2017 đăng tin: “Xót xa nữ sinh lớp 7 ở Thanh Hóa sinh con”. Ngày 4/4/2017, em P.T.V.T. (13 tuổi, đang học lớp 7, trú xã Thúy Sơn, huyện miền núi Ngọc Lặc, Thanh Hóa) đã sinh một bé gái. Bà Phạm Thị L (mẹ em T) kể lại câu chuyện trong nước mắt: Trong thời gian T mang thai, bà và bố của T đều không hay biết. Nhiều hôm T kêu đau đầu, mệt mỏi nên phải xin nghỉ học. Sáng ngày 4/4, T đau bụng quá, được gia đình đem nhập viện Bệnh viện Đa khoa khu vực Ngọc Lặc. Tại đây, bác sĩ siêu âm cho biết T có thai và đang chuyển dạ. T đã sinh một bé gái nặng 2,8kg. T nói có thai với anh B người cùng thôn. Sau khi biết tin T sinh con gái, gia đình anh B và anh B đều chối bỏ trách nhiệm. Vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, T còn nhỏ dại, nên gia đình đã đồng ý cho cháu bé làm con nuôi một gia đình. Trẻ vị thành niên sinh con thì khó khăn trong việc chăm sóc em bé, chuyện học tập, và tương lai công việc cũng bị ảnh hưởng.[20]
Đối với trường hợp giao hợp tiền hôn nhân, chúng ta phân biệt rõ ba trường hợp khác nhau.
- Chỉ vì lý do dâm dục. Thật rõ ràng giao hợp đó chỉ biểu lộ một tính dục chưa trưởng thành, và rất có thể sẽ không trưởng thành bao giờ. Lối giao hợp này chỉ biểu lộ lòng ích kỷ, thiếu trách nhiệm đối với người khác, cách riêng đối với người thiếu nữ, và đối với bào thai có thể có. Có thể nói cách khó nghe, không khác chi giao hợp với gái mại dâm. Các bạn nữ cần tự vấn có phải vì chính cô ưng thuận quá dễ dàng? Và có phải chính vì sự quá dễ dãi của cô mà làm cho người con trai chán ngấy đối với “con mồi” không (quả thật trong trường hợp này phẩm giá con người bị hạ thấp) ? Người con trai có thể nghi ngờ “dễ dàng như thế chỉ đối với mình sao?” Một vị tư vấn kể lại lời của cô gái 20 tuổi về thái độ người bạn trai sau khi biết cô có thai: “em đến kiếm anh ấy mấy lần, nhưng lần nào anh ấy cũng tránh mặt. Lần cuối cùng anh ấy còn nói thẳng là ảnh không biết đó có phải là con của ảnh không vì ảnh cho rằng ảnh quan hệ với em dễ dàng như thế thì người khác cũng làm vậy được”.
Giới trẻ ngày nay cứ tưởng mình sống dễ dãi, buông thả là có thể khỏa lấp những sự trống trải, chán nản của tâm hồn. Nhưng không, thật ra càng dấn thân sâu vào tội lỗi bao nhiêu, thì họ càng chuốc lấy những đau khổ, chán chường, bất mãn sẽ chồng chất, do mặc cảm tội lỗi, do sự mất uy tín, mất thiện cảm và cả sự khinh ghét của xã hội, của gia đình, khiến họ càng thất vọng, càng chán nản, mất tin tưởng. Chính họ đã đánh mất đi tương lai của mình. Ngoài ra, cuộc sống tình yêu dễ dãi cũng lãnh nhận một hậu quả khó tránh: suy tàn nhan sắc, hao mòn sức khỏe.
- Trường hợp thứ hai là giữa hai người nam nữ đã yêu thương nhau, và muốn biểu lộ tình yêu với nhau. Có thể là trường hợp thông thường nhất. Hai người đủ lớn để hiểu, đã trưởng thành, bằng lòng giao hợp để biểu lộ tình thương mến nhau…Đã hẳn nhiều thanh niên thiếu nữ có thể suy nghĩ như vậy, tuy nhiên đó là lối suy tư sai lầm và nguy hại. Trước hết, nhiều thanh niên thiếu nữ rất dễ dàng lẫn lộn tình yêu với tình dục, đặc biệt các bạn nam. Do đó họ có thể dỗ cô gái: “nếu em yêu anh…”[21]Điều chính yếu là việc giao hợp tiền hôn nhân mất ý nghĩa sâu xa của nó, bởi vì ở đây, không thể thực hiện và không thể biểu lộ sự cảm thông hoàn toàn của hai cuộc sống khi hai nhân vị hiến dâng lẫn nhau. Dù yêu nhau, hai tâm hồn đó chưa sẵn sàng chỉ thuộc về nhau, hai người chưa có thể trở nên “một xương một thịt”. Do đó việc giao hợp không những là không chân thực vì không thể thích hợp với ý nghĩa của nó, mà còn không giúp hai bên lớn lên trong tình yêu: biết thêm về nhau, hiệp thông tinh thần, xây dựng lòng tôn trọng, cảm phục, thành tín. Trái lại, những khía cạnh tình cảm và tình dục, là những khía cạnh thiển cận nhất, sẽ ưu thắng dễ dàng. Về phía tâm lý sẽ gây cho tình yêu thoái hóa chứ không phải tiến triển.[22]Đặc biệt tâm lý phụ nữ không cách nào tách biệt ý nghĩa tận hiến của việc giao hợp với ý nghĩa hưởng lạc, nếu có. Bởi vậy, trong trường hợp giao hợp nhất thời, người con gái không tìm thấy những giá trị cao thượng nhất đối với mình, và sẽ dễ cảm thấy rằng mình chỉ trở thành đối tượng thỏa mãn cho người con trai. Cô gái sẽ cảm thấy phẩm giá mình bị tổn thương và thấy mình bị lừa dối vì cô thiếu hẳn điều mình khao khát và tìm kiếm trên hết, là được che chở trong sự chiếm hữu hỗ tương. Ngoài ra, trong trường hợp này, thường là không để ý đến, hoặc cố tình loại bỏ ý nghĩa sinh sản của hành vi giao hợp, thì sự “giả dối” của hoạt động đó càng mạnh mẽ hơn nữa, và việc giao hợp không mang tính nghiêm chỉnh. Thêm vào đó, những việc giao hợp trước hôn nhân thường xảy ra trong những hoàn cảnh bất tiện, cho nên rất có thể làm nguy hại đến thái độ và quan niệm của hai người đối với tình dục sau này. Nghĩa là, đối với họ, hoạt động tình dục sẽ không còn là nguồn vui sâu lắng. Sau cùng, không đi đến hôn nhân (và hôn nhân chưa chắc là giải pháp tốt nhất sau những kinh nghiệm giữa trai gái chưa nhắm tới hôn nhân) thì tình trạng cô gái nhiều khi thật bi thảm (dù có thụ thai hay không). Dù người ta có theo tiêu chuẩn luân lý hay không, thì sự trinh khiết của cô gái vẫn là điều quý giá đối với hôn nhân. Điều này không phải hoàn toàn do thành kiến. Tâm lý đàn ông muốn toàn thắng và chỉ một mình làm sở hữu chủ. Về phía người con gái, cô đã tự dâng hiến để chàng trai chiếm hữu mình; từ lúc đó, xét về phương diện tâm lý, cô vẫn ở trong tình trạng đầy lo âu. Hơn thế nữa, nhiều khi cô cảm thấy không thể yêu ai khác ngoài người yêu đầu tiên. Thêm nữa, thử thách vẫn chưa hết nếu sau này hai người có kết hôn thật sự, khi gặp những khó khăn, thì họ càng dễ nghi ngờ nhau hơn.[23]
- Trường hợp thứ ba là trường hợp của đôi tình nhân đã có ý định sẽ lập gia đình (dù đã hứa hôn chính thức hay chưa) để cùng nhau xây dựng tương lai, dẫu thế họ vẫn chưa thể kết hôn vì một số lý do khách quan. Đôi khi cũng viện lẽ là nên giao hợp hôn nhân trước khi kết hôn để thực nghiệm tình yêu toàn diện. Tuy nhiên đó chỉ là ngụy biện vì tình yêu nhân linh không có thể thực nghiệm được. Mục sư T. Bovet từng nói: “Đi ngủ mê để thực nghiệm sự chết thế nào, không thông minh lắm, cũng một lẽ đó nếu muốn thực nghiệm sự phối hợp hôn nhân khi chưa kết hôn”. Đôi bạn có thể nghĩ rằng kết hôn chỉ là vấn đề thời gian, vậy không sợ gì khi giao hợp. Dù chân thành và thiện chí đến đâu nữa, nhưng hoàn cảnh của họ vẫn chưa bảo đảm như sau khi kết hôn, nhất là mối dây liên kết của họ chưa được xã hội phê chuẩn một cách chính thức. Vì thế những điều đã nói ở trên về phương diện tâm lý ít nhiều cũng phải áp dụng trong trường hợp này. Thực tế đã có những trường hợp vì lý do bất ngờ nào đó, đôi bên vẫn không thể đi đến hôn nhân.[24]
Tiến sĩ Paige Harden ở khoa tâm lý, Đại học bang Texas ở Austin (Mỹ) đã sử dụng dữ liệu để so sánh độ tuổi lần đầu tiên quan hệ tình dục, và sự hài lòng về mối quan hệ (cũng như các khía cạnh khác của đời sống) trong cuộc sống sau này. Sau đây là kết luận của ông công bố trên tạp chí Psychological Science:
– Quan hệ tình dục sớm khổ nhiều
– Bạn trẻ giữ gìn trinh tiết thường hạnh phúc hơn trong hôn nhân sau này. Ngược lại, “làm chuyện ấy” quá sớm chỉ khiến bạn dễ vỡ mộng về bạn đời.
– Những người “đình hoãn” quan hệ tình dục cho đến ít nhất 20 tuổi thì khi trưởng thành: Kiếm nhiều tiền hơn; Có bằng cấp cao hơn; Có ít bạn tình hơn; Khi kết hôn, họ ít khi thất vọng về cuộc hôn nhân của mình (trong các vấn đề như bày tỏ tình yêu, lắng nghe, tôn trọng nhau, đồng thuận cách quản lý tài chính, giải quyết vấn đề, làm việc thường ngày cùng nhau…).[25]
Từ các hiểu biết thân xác và hậu quả tiêu cực của việc quan hệ thân xác trước hôn nhân về mặt y khoa và xã hội, chúng ta dễ mở lòng tìm hiểu giáo huấn Giáo hội.
V. GIÁO HUẤN GIÁO HỘI VỀ SỐNG KHIẾT TỊNH
1. Khái niệm và “vẻ đẹp” của đức khiết tịnh
Thật ra, khó có định nghĩa chính xác. Khiết tịnh là khả năng làm chủ các xung động giới tính, điều khiển những ham muốn tình dục và hướng ý nghĩ, cách cư xử theo lẽ phải, theo lý trí, theo chân lý của tình yêu đích thực trong sự hiệp thông với Thiên Chúa và tha nhân. Khiết tịnh không chủ yếu có nghĩa là khước từ hành vi tình dục bất hợp pháp. Trước tiên và cơ bản, khiết tịnh là chấp nhận trọn vẹn ý nghĩa đích thực của tính dục, sự tốt lành của loài thụ tạo được dựng nên là nam, là nữ theo hình ảnh Thiên Chúa. Hành vi tình dục kết hợp phu phụ được Thiên Chúa chúc lành. Thật sự, khiết tịnh là một nhân đức tích cực được tạo nên bởi đức ái để hướng bản năng tình dục và yêu thương theo một trật tự trong chương trình kế hoạch của Thiên Chúa.
Khiết tịnh không phải là ức chế, nó hoàn toàn tự do. Nó giải thoát chúng ta khỏi khuynh hướng dùng người khác để thỏa mãn ích kỷ và giúp chúng ta yêu thương tha nhân như Chúa Kitô yêu mến chúng ta. Đó là khả năng yêu thương vô vị lợi, dâng hiến trọn vẹn và tương kính. Đức khiết tịnh giúp con người trở thành nhân chứng của Thiên Chúa Đấng là Tình Yêu. “Dưới ảnh hưởng của đức mến, đức khiết tịnh là trường dạy tự hiến. Tự chủ là để tự hiến. Vì thế người sống khiết tịnh trở thành nhân chứng của Thiên Chúa trung tín và yêu thương” (GLHTCG, s.2346).
Đức khiết tịnh được gọi là nhân đức “thiên thần” (x. Mt 22,30). Là nhân đức đem lại chiến thắng của tinh thần trên các hướng chiều của thân xác, và như thế, đòi hỏi một ý chí mạnh mẽ. Tuy nhiên, đức khiết tịnh không phải là nhân đức cao nhất hay quan trọng nhất trong các nhân đức, vì nó không được xếp trong bốn nhân đức trụ. Nhưng đức khiết tịnh làm cho ta được thông phần vào đức trinh khiết của Đức Kitô, và khi noi gương trinh khiết của người, đời sống Đức Kitô sẽ chiếu tỏa “trong thân xác chúng ta” (x. 2Cr 4,10).
Nhân đức khiết tịnh do đó thật thiết yếu đối với tất cả các bậc sống độc thân, hôn nhân hay tu trì nếu chúng ta biết khám phá và chu toàn chính ý nghĩa của sự sống và hiện hữu của chúng ta. Người đi tu sống độc thân để thuộc trọn về Chúa. Họ là những dấu chứng giữa trần gian về cuộc sống đời sau, nơi người ta không còn dựng vợ gả chồng như ở trần gian này nữa (x. Mc 12,25). Các bạn trẻ chưa kết hôn: giữ gìn thân xác trong sạch là món quà quý giá chỉ tặng độc nhất cho một người: người vợ hay người chồng tương lai của mình. Người sống đời đôi bạn cũng phải trong sạch: trung thành với bạn mình, tôn trọng nhau trong quan hệ vợ chồng đúng đắn, tạo bầu khí yêu thương, cởi mở, thanh khiết trong gia đình.
2. Khái niệm về sự dâm dục
“Dâm dục là ham muốn sai trái hay hưởng thụ vô độ khoái lạc tình dục. Khoái lạc tình dục trở thành sai trái, khi con người chỉ tìm hưởng thụ để thỏa mãn chính mình, chứ không nhằm mục đích truyền sinh và kết hợp trong tình yêu” (Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, GLHTCG s. 2351).
Đây là nết xấu tương phản với đức khiết tịnh, do thái quá. Nghĩa là sự hữu ý ham muốn hỗn loạn khoái lạc nhục dục, lôi cuốn theo việc sử dụng bừa bãi năng lực sinh dục.
3. Tại sao phải sống khiết tịnh
Mối phúc Thứ sáu: “Phúc thay ai có trái tim trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8). Đức khiết tịnh mang lại cho con người sự sống đời đời. Những người có trái tim trong sạch là những người biết làm cho trí tuệ và ý chí của mình phù hợp với những đòi hỏi của sự thánh thiện và đòi hỏi của Thiên Chúa…Có mối dây liên kết giữa sự trong sạch của trái tim, của thân thể và của đức tin. Thật vậy, “vẻ đẹp” của đức khiết tịnh như vừa trình bày ở trên, cho thấy đức khiết tịnh là hoa trái của Chúa Thánh Thần (x. Gl 5,22).
4. Phẩm giá của nhân vị – Ý nghĩa của tính dục con người
Truyền thống Giáo hội luôn liên kết tính dục loài người vào kế hoạch cao cả của Thiên Chúa, đó là dấu chỉ tình yêu, sự kết hợp hai tâm hồn và truyền sinh. Tính dục liên kết mật thiết với toàn bộ đời sống thể lý, tình cảm, tinh thần và thiêng liêng của người nam và người nữ. Sứ điệp luân lý Kitô giáo mời gọi con người sống tự do và trách nhiệm, tăng trưởng trong đời sống thiêng liêng, và không nhằm gây cho con người lo sợ tội và hình phạt. Luân lý Kitô giáo nhấn mạnh vẻ đẹp nhân đức và sự thể hiện đời sống con người là hình ảnh Ba Ngôi Thiên Chúa hiệp thông.
Con người là hình ảnh của Thiên Chúa
Phẩm giá con người bắt nguồn từ việc con người được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa và giống Thiên Chúa. Con người có trách nhiệm dùng tự do đạt tới sự sống viên mãn trong Thiên Chúa. Con người sử dụng toàn bộ đời sống giác quan và tinh thần để xây dựng bản thân và tăng trưởng nội tâm. Nhờ ý chí, con người có khả năng hướng tới sự thiện hảo đích thực. Nhờ lý trí, con người nhận ra tiếng nói của Thiên Chúa thúc đẩy mình “làm lành lánh dữ” (x. GLHTCG s. 1700, 1704, 1706).
Con người được mời gọi để yêu thương chân tình
Con người được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa để yêu thương. Trong “Tông huấn về Gia đình” (Familiaris Consortio), Thánh Gioan Phaolô II chỉ rõ chân lý này và nối kết chân lý này với mầu nhiệm của sự sống nội tại của Ba Ngôi Thiên Chúa: “Thiên Chúa là tình yêu. Trong Ngài, Thiên Chúa sống mầu nhiệm hiệp thông thương yêu giữa các bản vị. Tạo dựng loài người theo hình ảnh của Ngài và tiếp tục duy trì con người hiện hữu, Thiên Chúa ghi khắc trong nhân tính của người nam và người nữ ơn gọi, khả năng và trách nhiệm, của yêu thương và hiệp thông…Con người được gọi để yêu thương trong tổng thể hiệp nhất (hồn và xác) của chính mình. Tình yêu bao gồm cả thân xác, và thân xác chia sẻ, tham dự trong tình yêu.” (x. GLHTCG s. 2331)
Tình yêu và tính dục con người
Hội Đồng Giáo Hoàng về Gia Đình nói về mối liên kết giữa tình yêu và tính dục con người:
“Tình yêu là một quà tặng của Thiên Chúa, được nuôi dưỡng bởi, và diễn tả trong sự gặp gỡ giữa người nam và người nữ. Tình yêu vì vậy là một sức mạnh tích cực hướng về sự tăng trưởng trong sự trưởng thành là các nhân vị. Trong kế hoạch đời sống mỗi người với ơn gọi của mình, tình yêu cũng là một nguồn mạch quý giá cho sự tự hiến của tất cả người nam, người nữ được gọi để tự thể hiện chính mình và niềm hạnh phúc. Thật vậy, con người được gọi để yêu thương trong sự thống nhất của hồn và xác. Tình yêu nhân loại vì vậy bao hàm thân xác và thân xác cũng diễn tả tình yêu thiêng liêng. Sự sử dụng tính dục như sự trao ban thân xác có chân lý riêng và đạt đến ý nghĩa tròn đầy khi nó diễn tả sự trao ban nhân vị giữa người nam và người nữ, trung thành cho đến chết. Trong toàn bộ đời sống mỗi người, tình yêu dễ bị cám dỗ do ảnh hưởng tội nguyên tổ, sự yếu đuối được kinh nghiệm ngày nay trong nhiều bối cảnh xã hội-văn hóa được đánh dấu bởi những ảnh hưởng mạnh mẽ tiêu cực, có khi lệch lạc và gây tổn thương. Tuy nhiên sự cứu độ của Đức Chúa đã làm cho việc thực hành khiết tịnh một cách tích cực là một điều thực tế có thể và một động lực cho niềm vui, cho bậc sống độc thân, hôn nhân cũng như tu trì”.
Tính dục được ghi khắc trong bản tính con người từ lúc tạo dựng, con người tương quan với tha nhân với tư cách là người nam hay người nữ, và dâng hiến chính mình qua sự kết hợp tình yêu hôn nhân:
“Tình dục của con người là một điều thiện hảo: Ðó là một phần của quà tặng sáng tạo mà Thiên Chúa nhìn thấy là “tốt” khi Người dựng con người theo hình ảnh và giống Người và Người dựng nên con người “có nam có nữ” (St 1,27). Giới tính là con đường để con người đến gần kẻ khác và tự bộc lộ mình ra cho kẻ khác, và như thế mục đích chính của nó là tình yêu, nói rõ hơn, tình yêu như quà tặng và đón nhận, như cho và nhận. Tương quan giữa người nam và người nữ theo bản chất của nó là tương quan của tình yêu: “Tình dục phải được tình yêu định hướng, giáo dục và bổ túc, vì chỉ có tình yêu mới giúp cho tình dục mang tính nhân bản”. Khi một tình yêu như thế hiện thực trong hôn nhân, sẽ làm cho sự tự hiến qua thể xác nổi bật lên tính trao đổi và trọn vẹn của quà tặng; tình yêu vợ chồng trở thành một sức mạnh làm phong phú và giúp cho con người phát triển, đồng thời bồi dưỡng cho văn minh tình yêu; nhưng nếu ngược lại thì tình dục sẽ mất đi ý nghĩa và biểu hiệu quà tặng của mình, từ đó xuất phát một thứ văn minh của “đối tượng” chứ không phải văn minh của con người; trong thứ văn minh này con người bị sử dụng như người ta sử dụng các đồ vật. Trong khung cảnh của văn minh hưởng thụ người nữ trở thành đối tượng sử dụng của đàn ông, con cái trở thành phiền toái cho cha mẹ”.
Vậy khi chúng ta tìm thấy ý nghĩa thực sự của tình dục, chúng ta chạm đến điều chính yếu của con người trong tư cách là người nam hay người nữ. Chúng ta cần tìm hiểu sứ điệp của Kinh Thánh về mối tương quan người nam và người nữ trong kế hoạch tạo dựng của Thiên Chúa.
Kinh Thánh
Sáng thế 2, 24
Hôn nhân được thiết lập bởi Thiên Chúa ngay từ lúc khởi đầu lịch sử Kinh Thánh. Thứ tự của câu văn rất quan trọng: rời bỏ, kết hợp và trở nên một xương thịt, sự kết hợp ở đây bao hàm cả thân xác và tinh thần, không chỉ riêng tình dục. Giáo huấn tích cực chỉ ra rằng tạo dựng thân xác là tốt lành, tình dục là tốt lành. Chú ý rằng nguyên nhân của sa ngã ban đầu không phải là tình dục, mà là tính kiêu ngạo muốn biết sự lành dữ giống Thiên Chúa.
Đệ Nhị Luật 22, 13-29
Chương này nói đến nhiều điều quan trọng. Thứ nhất, sự trinh khiết vào lúc kết hôn là điều được đòi hỏi. Thứ hai, câu 21 nói đến và nhấn mạnh tình dục trước hôn nhân được gọi là “hành vi ô nhục”. Thứ ba, tình dục trước hôn nhân, ngay cả giữa hai người trưởng thành đồng thuận với nhau, vẫn bị xem là sai trái (c. 23-24).
1 Cr. 6, 15-18
“Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao? Ai đã kết hợp với Chúa, thì nên một tinh thần với Người.Anh em hãy tránh xa tội gian dâm. Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình. Hay anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế, anh em đâu còn thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em.”
Trong 1 Cr 6,12-20 thánh Phaolô chống lại thuyết nhị nguyên tách biệt thân xác và tinh thần. Tình dục không phải tầm thường như thỏa mãn cơn đói thể lý (c. 13). Thân xác quan trọng bởi vì Thiên Chúa đã cứu chuộc thân xác và sẽ cho thân xác phục sinh. Chú ý rằng tình dục tiền hôn nhân không phải là một cuộc “hôn nhân nhỏ”, nhưng nó xâm phạm vào mảnh đất thánh thiện của hôn nhân theo một cách thức không thể chấp nhận được. Sự kết hợp thể xác không được thực hiện bên ngoài sự kết hợp nên “một xương một thịt” là chính hôn nhân. Sự việc kết hợp với người khác không phải là người phối ngẫu là tự tách rời khỏi Đức Kitô, Đấng mà chúng ta được kết hợp một cách thiêng liêng với tư cách là các Kitô hữu. Thánh Phaolô nói đến ý nghĩa mại dâm của việc giao hợp thân xác tiền hôn nhân, và Ngài xem đó là một loại nhị nguyên.
Trong 1 Cr 7, Thánh Phaolô đề cập đến tình huống các Kitô hữu chưa kết hôn bị đốt cháy bởi đòi hỏi dục tình (c.8-9) thì cần phải tự tiết chế hoặc kết hôn (x. c. 36-38). Tư tưởng ở đây diễn tả tương tự như điều được nói đến trong Đnl 22.
Trong các tác phẩm của Phaolô từ ngữ gian dâm nói đến bất cứ loại quan hệ tình dục bất hợp pháp nào. Hãy đọc lại các câu (và các bối cảnh) trong đó từ gian dâm được sử dụng: Mt 5,19; Cv 15, 20; Gl 5,19; Ep 5,3; 1Tx 4, 3; Kh 9,21.
Từ ngữ “gian dâm” cơ bản nói đến bất cứ quan hệ tình dục nào ngoài hôn nhân, đồng tính hay khác phái luyến ái, mại dâm, loạn luân, hay thú dâm. Có nhiều tranh luận về từ dùng này, nhưng nói chung đa số học giả Kinh Thánh ủng hộ cách dùng từ này. “Hãy tránh xa các sự vô luân về tình dục và hãy tự chủ” (x. 1 Tx 4, 1-8) là một sứ điệp cho mọi người, cách riêng các Kitô hữu trong một thế giới nghiêng về khoái lạc nhục dục.
Suy tư: giao ước hôn nhân như bối cảnh đúng đắn duy nhất thích hợp cho quan hệ tình dục với sự kết hợp thành một xương thịt của người nam và người nữ; và biểu trưng hôn nhân với tương quan của Thiên Chúa với Dân của Người. Lý luận từ Luật tự nhiên, thì tình dục trước hôn nhân đối nghịch với mục tiêu của tình dục (truyền sinh và dưỡng dục con cái).
Bộ Giáo lý Đức tin trong “Tuyên ngôn về Vài Vấn nạn liên quan đến Đạo đức tính dục” số 11 dạy rằng: “Ý muốn của Thiên Chúa là anh em nên thánh, tức là xa lánh gian dâm, mỗi người trong anh em hãy biết sử dụng thân xác thuộc về anh em theo cách thức thánh thiện và trong danh dự, chứ không buông theo dục vọng ích kỷ như dân ngoại, là những người không biết Thiên Chúa. Đừng ai làm tổn thương hay lừa dối người anh em mình…Thiên Chúa đã không kêu gọi chúng ta sống ô uế, nhưng sống thánh thiện. Vậy ai khinh thường những lời dạy trên, thì không phải khinh thường uy quyền người phàm, nhưng khinh thường Thiên Chúa, Đấng hằng ban cho anh em Thánh Thần của Người.” Tội tà dâm không chỉ làm tổn thương tha nhân hay tổn thương trật tự xã hội mà còn chống lại chính Đức Kitô là Đấng đã cứu chuộc con người bằng chính máu Ngài và chống chính Thánh Thần ngự trong đền thờ thân thể.
VI. VÀI TỘI XÚC PHẠM ĐỨC KHIẾT TỊNH TRƯỚC HÔN NHÂN
Hậu quả của sự dâm dục được thánh Thomas Aquinas tóm tắt như sau: lý trí ra mù quáng, mất khả năng suy xét và phán đoán sự việc, cũng như quyết định điều thích hợp. Đối với ý chí, dâm dục khiến nó trở nên ích kỷ, và khiến con người nghiêng về việc giận ghét Thiên Chúa, Đấng cấm đoán sự dâm dục kia. Theo một nhãn quan khác, dâm ô trói buộc vào những gì tạm bợ và đưa đến thất vọng những việc trên Trời, những việc con người coi là viển vông.[26]
Dâm dục là điều xấu, vì xác thịt chiến thắng tinh thần, vì con người chịu khuất phục khoái lạc, khoái lạc không hẳn chỉ đặc biệt dành cho con người, mà có chung một phần nào đó cho cả thú vật. Trong dâm dục, con người không để mình được hướng dẫn bởi lý trí. Dâm dục tương phản với sự thánh thiện thể xác của tín hữu (1 Cr 6, 12-30; Ga 5, 16-26; Ep 5,3-5).
Dâm dục gọi là trực tiếp khi ý chí tìm kiếm chính khoái lạc. Lúc đó khoái lạc là đối tượng của ý chí. Đối tượng ấy đối với chủ thể hành động có thể là mục đích, hay chỉ là phương tiện đạt được mục đích. Dâm dục gọi là gián tiếp, khi chủ thể đi tìm một đối tượng khác với chính khoái lạc, nhưng ý chí không thể tránh né khoái lạc kia, bởi vì khoái lạc không tách rời khỏi đối tượng mà ý chí đang tìm kiếm. Dâm dục hoàn toàn hay chưa hoàn toàn tùy theo đó là khoái lạc đạt đến kích thích cực độ (hay cực khoái, orgasm) hay chưa.
Vấn đề xem xét ở đây là hoạt động tình dục ngoài hôn nhân.
1. Tính luân lý của các hành vi dâm dục hoàn toàn hữu ý trực tiếp[27]
Nói chung, mọi hoạt động dâm dục hoàn toàn hữu ý trực tiếp, tức là cố ý sử dụng hành vi tình dục để đạt được kích thích cực độ ngoài hành vi giao hợp vợ chồng đều là tội nghiêm trọng. Lý do là vì các hành vi này làm hủy hoại trật tự tốt lành Thiên Chúa đặt để cho việc sử dụng khả năng sinh sản và niềm vui thú tình dục chỉ trong bối cảnh hôn nhân. Các hành vi dâm dục hoàn toàn hữu ý trực tiếp làm phá hủy ý nghĩa tính dục con người, ý nghĩa kết hợp và truyền sinh của hành vi độc quyền của hôn nhân.
2. Tính luân lý của các hành vi dâm dục không hoàn toàn hữu ý trực tiếp [28]
Các hành động tình dục hữu ý trực tiếp nhắm tìm khoái lạc nhục dục, mặc dù không nhắm tới việc kích thích cực độ. Xét về bản tính, tác động không hoàn toàn này chỉ là bước đầu của tác động hoàn toàn, và thông thường, tự nhiên thúc đẩy đến tác động hoàn toàn. Vì thế, nhiều nhà thần học luân lý xếp các hành vi dâm dục không hoàn toàn hữu ý trực tiếp này vào phạm vi “vấn đề quan trọng”. Kích thích tình dục mà người ta hữu ý tìm kiếm hoặc ưng thuận ngoài bối cảnh hôn nhân dù là việc nhỏ thì lúc đó cơ năng sinh dục đã bị sử dụng nghịch lại mục đích chính yếu rồi. Dù sao, về mặt khách quan, các hành động tìm kiếm khoái lạc hoàn toàn vẫn nghiêm trọng hơn các hành động tìm kiếm khoái lạc không hoàn toàn.
3. Tính luân lý của các hành vi dâm dục không hoàn toàn hữu ý gián tiếp [29]
Dâm dục gọi là gián tiếp, khi chủ thể đi tìm một đối tượng khác với chính khoái lạc, nhưng ý chí không thể tránh né khoái lạc kia. Kích thích và khoái lạc người ta không tìm kiếm, nhưng không loại bỏ được.
Chẳng hạn diễn viên đóng phim tình cảm, có các cảnh hôn, ôm ấp thắm thiết vô tình tạo nên kích thích tình dục; bệnh nhân được bác sĩ khám bệnh về cơ quan sinh dục, sự đụng chạm có thể gây kích thích tình dục nơi bệnh nhân ngoài ý muốn. Người ta không bắt buộc phải bỏ qua một hoạt động nào, tự nó tốt, hoặc trung lập, mặc dù dự đoán có thể có kích thích tình dục, với điều kiện phải có lý do tương xứng chính đáng để hoạt động như vậy. Người bị kích thích do hoạt động đó dĩ nhiên chịu trách nhiệm về kích thích đó theo phương diện thể lý. Nhưng nếu có lý do tương xứng, thì không quy trách cho người đó theo phương diện luân lý. Sự kiện bị kích thích phần lớn có tính cách chủ quan, tùy thuộc không những ở tuổi tác, giáo dục, văn hóa cá nhân…nhưng còn tùy phần lớn ở dữ kiện thời gian. Do đó cùng một người có thể bị kích thích một cách rất khác biệt bởi cùng một nguyên nhân, vào những thời điểm khác nhau. Vì thế khó có thể lập ra một chuẩn mực khách quan, có giá trị đối với mọi người, đánh giá các nguyên nhân có thể gây ra kích thích mạnh hay yếu. Mà mỗi người phải ý thức điểm mạnh, yếu của chính mình và tránh các dịp cám dỗ.
– Nếu có lý do tương xứng, và sự kích thích thật sự xảy ra, thì ý chí không được phép chiều theo hay chấp thuận khoái cảm đó. Tự nó, sự kích thích, cũng như khoái cảm kèm theo đó, không xứng hợp với những đòi hỏi luân lý, nên ý chí phải loại bỏ chúng, và chỉ với lý do cần thiết, hay rất hữu ích, ý chí mới cam chịu sự lệch lạc này như là hậu quả không thể tránh được.
– Không thể có lý do tương xứng nào có thể biện minh việc người ta dấn thân vào một cảnh huống trong đó, ngoài sự dự liệu một kích thích, còn chắc chắn rằng sẽ không chống lại được kích thích và sẽ ưng thuận.
– Có dâm dục giả trang khi không có lý do tương xứng, mà chỉ là một cớ. Thí dụ cái hôn đầy cảm tình của một người đàn ông đã có vợ trao cho một phụ nữ đồng nghiệp không phải vợ ông. Một sự rung động nào đó, có lẽ hơi mạnh, có thể tiên đoán được. Nhưng ông ấy vẫn tự nhủ là ông có lý do để biểu lộ tình thương mến của ông (cớ). Thực tế, bên dưới cớ ấy, chính là kích thích mà ông đang tìm. Dĩ nhiên, nếu quả thật ông không tìm kích thích ấy, vấn đề sẽ là dâm dục gián tiếp như đã bàn ở trên.
– Những hành vi gọi là không trong sáng, tục tĩu (impudici): những cái nhìn, cái hôn, những ôm ấp, cuộc trò chuyện, lời nói đùa…nhắm để tìm sự dâm dục, có thể là những công cụ của dâm dục gián tiếp. Những hành vi này cũng có thể có một lý do thường xuyên khác, đó là sự khoái lạc giác quan. Xét rằng khoái lạc này dễ biến thành khoái lạc tình dục, cho nên ta không thể không để ý đến mối nguy về sự ưng thuận khoái lạc tình dục này.
4. Thủ dâm
Là hành động cố ý kích thích các cơ quan sinh dục, ngoài hành vi giao hợp, với mục đích đạt được khoái lạc tình dục, (x. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, GLHTCG số 2352), thường là đạt đến kích thích cực độ, nơi người nam biểu hiện bằng sự xuất tinh, nơi người nữ biểu hiện bằng sự xuất tiết chất nhầy ở âm đạo. Hành vi thủ dâm thường được thực hiện bằng chính một người hay đôi khi có thể được thực hiện bởi người khác.
Xuyên suốt lịch sử của mình, Giáo hội luôn dạy rằng, hành vi thủ dâm khi được lựa chọn tự do, là một điều sai trái nghiêm trọng, bởi vì nó luôn liên quan đến một sự thất bại không tôn trọng sự tốt lành của các hoạt động tình dục con người. Giáo huấn Giáo Hội luôn dạy rằng mọi hành vi thủ dâm cố ý là sự vi phạm nghiêm trọng nhân đức khiết tịnh. Cơ quan sinh dục không phải dụng cụ mà chúng ta có thể sử dụng đơn thuần cho sự vui thú. Chúng là một phần của chính con người chúng ta. Các hành vi tình dục luôn phải thực hiện trong bối cảnh hôn nhân và tình yêu dâng hiến nam nữ. Khi tôn trọng sức mạnh, ý nghĩa và chức năng của cơ quan sinh dục, chúng ta tôn trọng thân xác mà, qua bí tích rửa tội, trở thành một thân thể với Chúa Kitô và là đền thờ của Chúa Thánh Thần.
5. Xem sách báo, phim ảnh “đen” (khiêu dâm)
Tính chất xấu của hành vi này là ở chỗ nó xuyên tạc sự thật về tính dục con người. Và do đó điều đáng lẽ là biểu hiện sự kết hợp thân mật đôi lứa trong cuộc sống và trong tình yêu thì giờ đây bị giản lược thành một thứ giải trí tầm thường, ngay cả một thứ lợi ích cho kẻ khác.
“Sách báo và tranh ảnh khiêu dâm, cố ý phơi bày những hành vi tình dục, có thật hay mô phỏng, ra khỏi vòng thân mật của những người trong cuộc, xúc phạm đến đức khiết tịnh vì làm biến chất hành vi ái ân là việc trao ban thầm kín của vợ chồng với nhau; chúng làm tổn thương nặng nề đến phẩm giá của những người dự phần (diễn viên, kẻ kinh doanh, khán giả), vì người này trở thành đối tượng mua vui thô lỗ và là nguồn lợi nhuận bất chính cho người kia. Ấn phẩm khiêu dâm đưa tất cả những người tham gia vào sự ảo tưởng của thế giới giả trá. Đó là một trọng tội. Chính quyền phải ngăn cấm việc sản xuất và phổ biến những ấn phẩm khiêu dâm này.” (GLHTCG s. 2354)
Vấn đề của phim ảnh dâm dục đồi trụy (pornography) ngày nay là chúng đã bỏ qua hay chú ý rất ít về tính dục, chỉ hạn hẹp tính dục trong phạm vi tình dục. Và như thế, chúng cũng đã làm giảm giá trị của tình dục. Đức Cha Paul Loverde của Giáo Phận Arlington, Virginia, viết về nạn khiêu dâm trong thư Mục vụ nhan đề “Giá phải trả: những hình ảnh khiêu dâm và cuộc tấn công vào Đền Thờ Sống Động của Thiên Chúa” như sau: “Con người tiệm tiến bồi đắp hay hủy diệt nhân cách mình bằng từng và mỗi một quyết định luân lý. Khi cái nhìn của con người hướng vào chỗ lầm lạc, họ trở nên loại người sẵn sàng sử dụng người khác làm đối tượng để thoả mãn khoái cảm.”
Cái nguy hiểm đáng sợ nữa của phim ảnh khiêu dâm là chúng dễ gợi dục nơi những người xem, đặc biệt, theo kinh nghiệm của nhiều nhà thiêng liêng và nhà giải tội, các bạn trẻ đang hẹn hò rất khó tránh quan hệ tình dục sau khi cùng xem phim khiêu dâm.
Thủ dâm và xem văn hóa khiêu dâm là hai đề tài cần bàn luận sâu rộng hơn ở một bài viết khác.
6. Quan hệ thân xác trước hôn nhân: Tội gian dâm
Đó là sự giao hợp giữa những người chưa kết hôn. Đó là một tội trọng. “Tà dâm là quan hệ xác thịt ngoài hôn nhân giữa một người nam và một người nữ. Đây là lỗi nặng, xúc phạm đến nhân phẩm và phái tính của con người, vốn quy về lợi ích của đôi vợ chồng, cũng như sinh sản và giáo dục con cái. Ngoài ra tà dâm còn là gương xấu nghiêm trọng làm băng hoại giới trẻ ” (GLHTCG s. 2353).
Tình yêu không phải tùy tiện. Tình yêu không phải đơn thuần là lôi cuốn sắc dục. Tình yêu là sự quyết chọn, dấn thân vì người mình yêu. Nói như vậy không phải là đánh giá thấp cảm xúc và sự quyến rũ, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói những điều đó là “nguyên liệu” của tình yêu. Nhiều người phạm sai lầm khi cho “nguyên liệu” này giá trị như là “sản phẩm hoàn thành”. Mỗi người phải để cho ân sủng uốn nắn và rèn luyện nguyên liệu trở nên sự lựa chọn tự do, hy sinh làm điều tốt lành cho người mình thương mến.
Chỉ trong hôn nhân, quan hệ tình dục mới có được tất cả ý nghĩa trọn vẹn cao cả của nó. Ngay cả trong hôn nhân tự nhiên đã có cái quy chế phát triển trong hàng ngàn năm của nền văn hóa nhân loại. Trong tập sách « Tình yêu và trách nhiệm » Thánh Gioan Phaolô II dạy yêu thương vợ chồng là tự do chọn lựa biến chính bản thân mình thành quà tặng phong phú, trọn vẹn cho người mình thương yêu. Việc giao hợp nói lên ngôn ngữ này, ngôn ngữ của tình yêu Thiên Chúa. Ngôn ngữ của lời thề hứa hôn phối. Những gì kém hơn đều là dối trá, không xứng với nhân phẩm con người, với những gì Thiên Chúa muốn dành riêng cho con người khi tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài (x. St 1,27).
Thánh Gioan Phaolô II dạy rằng ngôn ngữ nhằm chuyển đạt chân lý. Truyền đạt điều dối trá là lạm dụng ngôn ngữ, yêu thương không bao giờ dối trá như thế. « Ngôn ngữ của thân xác » cũng nhằm chuyển đạt sự thật. Thân xác là « ngôn sứ » vì nó nói ngôn ngữ của Thiên Chúa, tức là tình yêu. Hai người trưởng thành thuận tình giao hợp với nhau nhưng chưa kết hôn là nói dối. Thân xác họ nói rằng : « Em (anh) thuộc về anh (em) một cách tự do, trọn vẹn, thủy chung, mãi mãi ». Nhưng thật ra điều họ nói không thực. Vì lời nói đó chỉ đúng trong hôn nhân. Bí tích hôn nhân thiết lập mối dây liên kết bền vững mà con người không thể tự ý cắt đứt. Giao hợp là dấu chỉ hữu hình của thực tại vô hình là hai người thuộc trọn về nhau và liên kết với nhau nên một. Vì vậy, cho dù hai người yêu nhau, nhưng chưa kết hôn, hành động giao hợp không phải là cử chỉ yêu thương chân thành tôn trọng lẫn nhau.
GLHTCG s.2348 : « Những người đính hôn cũng được mời gọi tiết dục để giữ khiết tịnh. Trong thời gian thử thách này, họ học biết tôn trọng lẫn nhau, tập chung thủy và hy vọng đón nhận nhau như quà tặng của Thiên Chúa. Họ sẽ dành những hành động biểu lộ tình yêu vợ chồng cho sau ngày thành hôn ».
“Kiểu nói tự do sống chung là dối trá, vì có nghĩa gì một sự kết hợp trong đó hai con người không cam kết với nhau và do đó cũng chứng tỏ rằng họ không tín nhiệm nơi người kia, nơi chính mình, hoặc ở tương lai? Kiểu nói này chỉ nhiều hoàn cảnh khác nhau: ăn ở với nhau không cưới xin, từ chối kết hôn theo đúng tính chất của hôn nhân, không thể ràng buộc nhau bằng những cam kết dài lâu (x. FC 81). Tất cả những trường hợp này xúc phạm phẩm giá của hôn nhân, phá hủy ý niệm về gia đình, làm suy giảm cảm thức về lòng thủy chung. Chúng nghịch với luật luân lý: hành vi tính dục chỉ được chấp nhận trong hôn nhân; ngoài hôn nhân, luôn luôn đó là một tội trọng và không được hiệp thông các bí tích” (GLHTCG s.2390).
Giáo hội đã khẳng định và tái khẳng định nhiều lần việc giao hợp chỉ được phép trong hôn nhân mà thôi. Bộ Giáo lý Đức Tin trong Tuyên Ngôn về « Vài Vấn nạn liên quan đến Đạo đức tính dục » ngày 29-12-1975 đã quả quyết rằng : « Nhiều người ngày nay đòi quyền được giao hợp với nhau trước khi thành hôn, miễn là hai ngươi quyết tâm kết hôn với nhau và thực tình yêu thương nhau. Họ coi quan hệ tình dục là điều cần thiết nhất khi việc cử hành hôn phối bị cản trở vì những hoàn cảnh bên ngoài hoặc để bảo tồn tình yêu…Nhưng ý kiến trên đây là điều trái ngược đạo lý Kitô giáo, theo đó mọi hành vi giao hợp phải diễn ra trong bối cảnh hôn nhân. Thật vậy, dù những người dấn thân trong những quan hệ tình dục trước hôn nhân có quyết tâm mạnh mẽ đến đâu đi nữa (về việc quyết định kết hôn với nhau) thì những quan hệ tình dục đó vẫn không bảo đảm – trong sự chân thành và chung thủy- tương quan giữa một người nam và một người nữ, và nhất là không bảo vệ tương quan đó khỏi những thay đổi theo trí tưởng tượng và tính tình thay đổi…sự kết hiệp thân xác chỉ hợp pháp khi người nam và người nữ có một sự thông hiệp cuộc sống một cách chung kết ».
Trong Familiaris Consortio số 82 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã dạy rằng những người Công giáo tuy đã làm hôn phối dân sự mà không làm phép cưới đạo thì không được lãnh các bí tích cho đến khi điều chỉnh tình trạng của họ.
Không đúng khi nói rằng quy tắc đòi hỏi hôn nhân chỉ có tính cách tương đối tùy theo những cơ cấu văn hóa. Các hình thức để xã hội chuẩn nhận hôn nhân khác biệt tùy theo các nền văn hóa, nhưng sự kiện hôn nhân là tổ chức chính thức luôn luôn có liên quan đến việc truyền sinh (và do đó liên quan đến sinh hoạt tình dục) hầu như là phổ quát. Và nếu hôn nhân bí tích (không khác biệt với hôn nhân tự nhiên)[30] là hình thức của sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Giáo Hội, tác động đặc biệt là dấu chỉ và thực hành một cách hữu hình sự kết hợp giữa vợ chồng, không thể có thực hành trước khi đã có sự thực. Dấu chỉ và sự thực liên hệ mật thiết với nhau đến nỗi có thể nói việc giao hợp thuộc về yếu tố của hôn nhân.
VII. LÀM SAO ĐỂ SỐNG KHIẾT TỊNH TRƯỚC HÔN NHÂN
1. Sự cần thiết của rèn luyện thân thể.
Rèn luyện thân thể khỏe mạnh
Một tinh thần khỏe mạnh trong một thân thể khỏe mạnh. Sự rèn luyện đều đặn là một thực hành để rèn ý chí. Ngoài ra, còn giúp giải tỏa những đòi hỏi về thể xác, giữ quân bình tâm sinh lý. Rèn luyện thân thể đều đặn cũng chính là một nhân đức.
Quý trọng thân thể, Thân thể là tuyệt tác của Thiên Chúa và có sự cộng tác của cha mẹ.
Ý thức về sự e thẹn, tôn trọng sự riêng tư thân thể
Đối với Đức Thánh Cha Phanxicô, cần phải có một nền giáo dục tính dục « gìn giữ một sự e thẹn lành mạnh ». Cho dầu ngày nay một số người cho rằng nó là một vấn đề của một độ tuổi khác, nhưng sự e thẹn có « một giá trị to lớn » vì « đó là một sự phòng vệ tự nhiên của con người, vốn bảo vệ tính nội tâm của mình và tránh việc nó trở thành một đồ vật thuần túy. Không có sự e thẹn, chúng ta có nguy cơ giảm thiểu tình cảm và tình dục thành những ám ảnh mà chỉ tập trung chúng ta vào khả năng sinh dục mà thôi ».[31]
2. Chọn bạn để kết giao, thận trọng trong chọn lựa hình thức giải trí và nơi chốn giải trí
“Hãy nói cho tôi bạn của bạn là ai tôi sẽ nói bạn là người như thế nào”.
“Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”
Một số hình thức giải trí tạo các “dịp tội”. Thực hành khổ chế ngũ quan, nhất là đôi mắt. Thống kê cho thấy rằng xem hình ảnh khiêu dâm, say sưa rượu bia, là các dịp cho các ước muốn bất chính và tội thể xác.
3. Rèn luyện nhân đức và đời sống tinh thần, thiêng liêng.
Nhớ rằng cái duyên dáng con người còn nằm ở một nhân cách lành mạnh. Chọn y phục trang nhã, thích hợp. Chú trọng nét đẹp tâm hồn, cái đẹp này tinh vi, kín đáo và thu hút bền lâu.
GLHTCG s. 2517: Trái tim là nơi của nhân cách luân lý “tự lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, tà dâm”. Cuộc chiến đấu chống lại dục vọng xác thịt phải cần đến việc thanh tẩy trái tim và thực thi đức tiết độ.
GLHTCG s. 2520: Cuộc chiến đấu chống lại dục vọng xác thịt và những ham muốn vô trật tự nhờ vào:
– Nhân đức và tiết độ và tự chủ
– Ý hướng trong sạch
– Cái nhìn trong sạch: bên ngoài và trong lòng; nhờ kiểm soát được các giác quan và trí tưởng tượng; nhờ khước từ mọi vui thú trong những tư tưởng không trong sạch.
– Cầu nguyện.
Hội Đồng Giáo Hoàng về Gia đình nhấn mạnh luyện tập nhân đức tự chủ là điều cơ bản trong việc chiến đấu sống khiết tịnh.
“Ðức khiết tịnh đòi hỏi phải học biết tự chủ, để sống như một con người. Rõ ràng con người phải lựa chọn: hoặc chế ngự các đam mê và được bình an; hoặc làm nô lệ chúng và trở nên bất hạnh” (GLHTCG s.2339). Qua kinh nghiệm, mỗi người đều biết rằng, đức khiết tịnh đòi buộc phải từ bỏ những tư tưởng, lời nói và hành động mang tính chất tội lỗi mà Thánh Phaolô luôn nhắc nhớ chúng ta (x. Rm 1,18 ; 6,12-14 ; 1 Cr 6,9-11 ; 2 Cr 7,1 ; Gl 5, 16-23 ; Ep 4,17-24 ; 5,3-13 ; Cl 3,5-8; 1 Tx 4,1-18 ; 1 Tm 1,8-11 ; 4,12). Như thế cần có khả năng và thái độ tự chủ. Ðây là những dấu chỉ của sự tự do nội tâm, ý thức trách nhiệm với mình và với kẻ khác; đồng thời cũng minh chứng con người đó có một lương tâm được đức tin giáo hóa. Sự tự chủ này đòi buộc con người phải tránh những cơ hội phạm tội và biết làm chủ những xung lực bản năng tự nhiên.”
Đời sống thiêng liêng Tham dự các Bí tích Giải tội và Thánh thể, yêu mến Đức Trinh Nữ Maria, tham gia hoạt động tông đồ.
Đào luyện để có được sự phát triển Tâm-dục-tính lành mạnh
Bốn chiều kích phát triển Tâm-dục-tính lành mạnh:[32]
– Nhận thức: nhận thức đúng đắn về cơ thể, giới tính, và tăng trưởng để có những hành vi – thái độ tích cực về tính dục.
– Cảm xúc: cảm giác thoải mái, tự tin, và có năng lực điều khiển thân xác và tính dục của mình và của người khác phái.
– Xã hội: tương quan với đồng giới và khác giới bằng những cách không qui ngã, cởi mở và phát triển những tiềm năng tương tác.
– Luân Lý: đánh giá cao những cách thức cần thiết để cho phép và làm tăng trưởng đời sống tính dục, như thế có thể phòng ngừa được những cách diễn tả tình dục gây phương hại.
Thiếu các chiều kích trên có thể đưa đến chiều hướng phát triển tiêu cực.
4. Cách thức đối phó với các cảm giác tình dục[33]
Có thể kể ra sáu cách đối phó với các cảm giác (kích thích) tình dục:
– Ba cách thức không lành mạnh
+ Dồn nén: (repression) một tiến trình bên trong, là một cơ chế đối phó đánh lừa ta, không cho ta ý thức các kinh nghiệm về cảm giác tình dục, và ta không ý thức là ta đang dồn nén.
+ Phủ nhận: không thừa nhận các cám xúc, các sự kiện có thật hiển nhiên. Thường xảy ra trong hoàn cảnh xã hội hay tương quan.
+ Bùng phát tình dục: dẫn đến việc thực hiện các hành vi tình dục thật sự với chính mình hay người khác, hoặc thủ̉ dâm.
– Ba cách thức lành mạnh
+ Diễn tả: tỏ bày cho người khác biết về những cảm xúc tình dục. Diễn tả cũng có thể qua cách “tự nói với mình”, ghi nhật ký, nói chuyện với người thích hợp, như với linh hướng, bạn bè thân thiết…
+ Kiềm chế: một phương thế đối phó có ý thức, nhận thức và chấp nhận chúng, và kiểm soát không cho chúng tăng thêm hay kiềm chế chúng.
+ Thăng hoa: quá trình ý thức và chấp nhận các cảm xúc tình dục và hướng năng lực tình dục vào những hoạt động lao động tây chân, làm vườn, hoặc các hoạt động được cho là cao hơn về mặt văn hóa, xã hội, thể lý, mỹ thuật, hay tâm linh.
– Bạn có thể có một cảm xúc, một ước muốn, nhưng bạn không cần phải thực hiện nó.
– Tưởng tượng có thể kích thích bạn, nhưng bạn không cần phải theo nó.
– Các hormone có thể làm bạn nổi hứng tình dục, nhưng không cần chiều theo nó.
– Các hành động phải hòa hợp với dự phóng đời sống của ta.
VIII. MỤC VỤ CHO BẠN TRẺ
Hẹn hò nam nữ: Mười quy tắc an toàn
Hẹn hò tuy là một phần của cuộc sống, nhưng cũng như hôn nhân, nó không nên trở thành sinh hoạt xã hội duy nhất của bạn trẻ. Ngay cả hôn nhân cũng đòi hỏi các cặp vợ chồng duy trì các mối tương quan bạn bè để ngăn ngừa vợ chồng trở nên đơn điệu và đóng kín. Và, cũng như các tương quan bạn bè không được làm suy yếu cuộc hôn nhân, thì hẹn hò cũng không được làm suy yếu các mối tương quan tình bạn. Các bạn trẻ hẹn hò nên giữ các nguyên tắc sau:
1/ Hãy chắc chắn rằng đời sống của bạn đặt nền tảng vững chắc trên cầu nguyện, đón nhận các bí tích và đọc Kinh Thánh để bạn có sức mạnh thiêng liêng chống lại các cám dỗ. Luôn lắng nghe Lời Chúa, tin tưởng cậy trông Ngài chớ không cậy dựa sức riêng.
2/ Không bao giờ đôi bạn ở nơi vắng vẻ chỉ có hai người: hoàn cảnh như thế thường tạo thuận lợi cho đôi bạn nói hay làm những điều mà đôi bạn sẽ không nói hay làm trước mặt cha mẹ hay vị linh mục. Thay vì thế, hãy đến nhà nhau: hãy hẹn hò trong khung cảnh gia đình, đi chơi xa với cả nhóm, không đi chơi xa riêng chỉ có hai người. Nên nhớ rằng sự riêng tư hẻo lánh là yếu tố khơi gợi cảm xúc thân thiết dục tình.
3/ Hãy chú ý các lời chuyện trò của bạn: chúng có thể được dùng để thuyết phục lẫn nhau rằng các hành động bạn đang làm không có gì sai trái trong khi có những lời bóng gió về tình dục cách ẩn dấu.
4/ Hãy chú ý nội dung hay kế hoạch các cuộc hò hẹn: cần nghĩ trước các hoạt động sẽ làm cùng nhau. Chú ý khoảng thời gian trống trãi không hoạt động, satan tìm việc cho các bàn tay rảnh rỗi. Bảo đảm các hoạt động hẹn hò phải lành mạnh, các sinh hoạt mang tính nhục dục hay xem phim ảnh tình cảm ướt át, phim khiêu dâm, ngay cả khi cùng xem trong một nhóm, có thể kích thích dục tình.
5/ Ăn mặc đoan trang kín đáo: mặc đẹp nhưng đừng để cho thân thể bạn trở thành tâm điểm khơi gợi dục tình.
6/ Tránh các hành vi có thể gây ra kích thích dục tình: nếu bạn không muốn trở nên bị đốt cháy bởi dục tình, đừng làm các hành vi có thể khơi dậy ham muốn. Đam mê thân xác rất mạnh mẽ và dẫn chúng ta chệch đường, vậy nên đừng để bị cuốn hút bởi cảm xúc nhưng để cho lý trí điều khiển và ý chí chống lại đam mê nhục dục. Các cảm xúc đốt cháy rất khó bị dập tắt.
7/ Hãy thành thực về chính mình: hãy nhớ bạn là ai, một người con cái Chúa, một người trên đường nên thánh bằng chính lối sống ngay chính đoan trang.
8/ Hãy trung thực với chính mình: tất cả chúng ta đều yếu đuối và dễ vỡ, và đôi bạn gây nguy hiểm cho chính linh hồn của mình và của người bạn đang hẹn hò nếu bạn nghĩ rằng các bạn mạnh mẽ đủ để đi “xa mức độ này, nhưng sẽ không xa hơn nữa”. Giữ các nụ hôn thoáng nhanh, giữ miệng đóng lại, và đừng để một cái ôm chầm trở thành một sự vuốt ve âu yếm.
9/ Chấm dứt ngay mối quan hệ hẹn hò càng sớm càng tốt khi bạn nhận ra rằng người này không phải là người bạn đời dành cho bạn. Mục đích hẹn hò là để tìm kiếm một người bạn đời, vì thế ngay khi bạn ý thức rằng bạn không thể sống đời với các thái độ, giá trị, thói quen, sinh hoạt…của người bạn đang hẹn hò, hãy chấm dứt mối quan hệ. Trước hết chuyện hẹn hò này sẽ không đi đến nơi mà đời sống bạn phải đi đến; thứ hai, cũng bất công cho người bạn hẹn hò khi bạn cứ tiếp tục hẹn hò mà biết chắc mình không có ý định hôn nhân nghiêm túc.
10/ Đừng bí mật về chuyện hẹn hò của bạn: hãy để gia đình và bạn bè chia sẻ niềm vui của bạn. Nên quan tâm đến hiệu ứng xã hội về mối tương quan hẹn hò của bạn. Tình yêu thật sự không phải là chiếm hữu, mà là mong người yêu được hạnh phúc. Tình yêu đích thật đem lại cảm giác bình an, làm cho con người trưởng thành.
IX. LỜI CẦU NGUYỆN CỦA NGƯỜI TRẺ[34]
Tình yêu và khiết tịnh
Tình yêu là kiên nhẫn, tốt lành, muốn chịu đựng tất cả. Tình yêu khiến người chồng và người vợ chăm sóc lẫn nhau cho đến chết. Tình yêu chính là quyết định chọn lựa hơn là một cảm xúc. Tình dục là biểu trưng của tình yêu và dấn thân thuộc hôn nhân. Tự do là khả năng làm những gì đúng đắn và nói KHÔNG với cám dỗ xấu.
Tình yêu chân thật biết chờ đợi
Lạy Chúa Giêsu đáng yêu mến, xin hãy giúp con sống cuộc đời làm vui lòng Ngài. Xin giúp con làm điều đúng và mạnh mẽ đủ để nói KHÔNG với những gì trái nghịch với ý muốn của Ngài. Xin hãy làm cho con trở nên một gương mẫu của tình yêu và sự tốt lành của Ngài cho gia đình, bạn bè và tất cả những người con gặp gỡ. Xin hãy giúp con tôn trọng chính mình bằng cách tránh xa những nơi và những người có thể làm xâm phạm con. Đặc biệt, xin ban cho con can đảm và sức mạnh để sống khiết tịnh, tôn trọng món quà tính dục của thân xác con và tránh quan hệ thân xác ngoài hôn nhân.
Lạy Chúa Giêsu, Ngài luôn là người bạn của những ai đau khổ hay gặp thử thách. Nếu con sai lỗi và vấp phạm, xin tha thứ và chữa lành con. Con biết rằng tình yêu của Ngài dành cho con thật lớn lao, Ngài luôn đồng hành với con và nâng con dậy và chỉ cho con nẻo đường ngay chính để bước đi. Amen.
Giao Ước Khiết tịnh
Tôi tin rằng tôi được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, được mời gọi sống cuộc sống viên mãn.
Tôi tin rằng bằng cách tôn trọng chính mình và người khác, tôi tôn vinh Chúa.
Tôi tin rằng tôi được mời gọi để sống theo mẫu gương và giá trị của Chúa Giêsu.
Nhìn nhận rằng tình yêu chân thật là chờ đợi, nên mạnh mẽ với sự can đảm nhờ Thần Khí và được nâng đỡ bởi cộng đồng Kitô hữu. Tôi hứa sống khiết tịnh, tôn trọng ân ban tính dục của tôi và tránh quan hệ tình dục ngoài hôn nhân.
Lời cầu nguyện khi đang hẹn hò
Lạy Chúa Cha toàn năng, xin hãy giúp chúng con ý thức rằng tình yêu đích thực sâu sắc và bền vững, là quà tặng của Ngài dành cho những ai tôn trọng và tôn kính lẫn nhau. Xin hãy lấy khỏi lòng chúng con tất cả dấu vết của sự ích kỷ hầu trong tất cả mọi sự, chúng con có thể giúp nhau lớn lên trong tình bạn thật sự. Hãy giúp chúng con xác tín rằng tình yêu đích thật sẽ không gây tổn thương, sử dụng hay lạm dụng người yêu.
Để đạt được điều này, xin hãy duy trì trong chúng con một tình yêu nồng cháy lớn mãi dành cho Chúa Giêsu, Đấng Cứu độ chúng con, bằng cách cầu nguyện không ngưng nghỉ và lãnh nhận Bí tích Thánh thể. Ước nguyện niềm hy vọng tươi sáng về cuộc hôn nhân hạnh phúc giúp chúng con tránh tội và những nguy cơ dễ dẫn chúng con đến phạm tội.
Chúng con cầu xin nhờ Danh Thánh Toàn Năng của Đức Giêsu Kitô. Amen
X. KẾT LUẬN
Ðối với số đông bạn trẻ ngày nay phải sống trong môi trường mà đức khiết tịnh bị tấn công và xem thường, sống khiết tịnh được coi như là một cuộc đấu tranh quyết liệt, đôi khi mang tính chất anh hùng. Nhưng với ân sủng của Ðức Kitô, Ðấng không ngừng tuôn đổ tình yêu của mình xuống trên Giáo Hội, chúng ta xác tín rằng mọi người có thể sống khiết tịnh, cả khi phải sống trong những môi trường không thuận lợi.
Mt 5, 48: “Các ngươi hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Ðấng trọn lành”. Như Công Ðồng Vatican II tuyên bố: mọi người đều được mời gọi để nên thánh, dù trong bậc sống nào, hoàn cảnh nào. Ðời sống Kitô hữu là con đường vui tươi hy vọng và đòi hỏi phải nên Thánh, cùng lúc biết rằng con đường theo Chúa là con đường hẹp, vác thập giá mỗi ngày theo Chúa Giêsu Chí Thánh, và cũng biết rằng sau mầu nhiệm Khổ nạn là sự Phục sinh quang vinh.
Tác giả: BS. Trần Như Ý Lan, Dòng Đức Bà
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 101 (Tháng 7 & 8 năm 2017)
[1] Xin chân thành cáo lỗi với bạn đọc vì vài tư tưởng của vài tác giả được sử dụng trong bài này, nhưng vì lý do khách quan chưa tìm lại được nguồn chính.
[2] X. Hoành Sơn, Nhìn từ Phương đông và hôm nay: Con Người Văn Hóa và Xã Hội ngôn ngữ, Ngoại tác và nội tâm, (Nhà Xuất bản Văn Hóa Thông tin, Tp HCM, 2005), tr. 24-25.
[3] Nguyễn thị Hải Phượng biên soạn, Giảm Stress, (Nhà Xuất bản Tổng hợp Tp Hồ chí Minh, 2005), 4.
[4] Bác Sĩ Anthony J. Suttilaro, Living Well Naturally (Houghton Mifflin com. Boston, 1986), bản dịch tiếng việt.
[5] Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Bình Tĩnh, Dịch giả, Quan Niệm Kitô Giáo về Con Người, (Đại Chủng Viện Huế, Lưu Hành nội bộ, 1997), 69. Nguyên bản tiếng Pháp Jean Mouroux, Sens Chrétien de L’Homme.
[6] Hiện tượng phóng tinh, có thể tự nhiên xảy ra trong giấc ngủ.
[7] X. Trần Thị Giồng, “Giáo dục giới tính”, 2004, Lưu hành nội bộ.
[8] Các Giám Mục Hoa-Kỳ, Tài liệu về tính dục con người, 1991.
[9] “Gần 6.000 ca nạo phá thai tuổi vị thành niên mỗi năm”, http://suckhoe.vnexpress.net/tin-tuc/suc-khoe/gan-6-000-ca-nao-pha-thai-tuoi-vi-thanh-nien-moi-nam-3431528.html, 6/7/2016.
[10] Thiên Chương, “Ngờ nghệch về sex, teen nữ ngậm ngùi thai nghén”, https://vnexpress.net/ngo-nghech-ve-sex-teen-nu-ngam-ngui-thai-nghen-2387077.html
[11] “Gần 6.000 ca nạo phá thai tuổi vị thành niên mỗi năm”, http://suckhoe.vnexpress.net/tin-tuc/suc-khoe/gan-6-000-ca-nao-pha-thai-tuoi-vi-thanh-nien-moi-nam-3431528.html
[12] “Gần 6.000 ca nạo phá thai tuổi vị thành niên mỗi năm”.
[13] X. BS Nguyễn Chấn Hùng, “Nào hay con tạo trêu ngươi”.
[14] Williams Obstetrics, trang 1363-65.
[15] Williams Obstetrics, trang 1346-51.
[16] X. Vũ văn An, “Bốn Mươi Năm Sự Sống Con Người », http://vietcatholicnews.net/News/Html/57349.htm
[17] X. Vũ văn An, “Bốn Mươi Năm Sự Sống Con Người », http://vietcatholicnews.net/News/Html/57349.htm
[18] Ngày nay, tiếng “mình” hơi bị “lạm dụng”, người nói chuyện có thể tự xưng là “mình” với người đối diện.
[19] Sđd, 98-99.
[20] Hà Đồng, “Xót xa nữ sinh lớp 7 ở Thanh Hóa sinh con”, http://tuoitre.vn/tin/phap-luat/20170413/xot-xa-nu-sinh-lop-7-o-thanh-hoa-sinh-con/1297379.html
[21] “Nếu em thực sự yêu anh thì em sẽ…” . Lời “chờ đợi” phát từ miệng cô gái là lời hoàn toàn phù hợp để kết thúc câu nói trên của chàng trai. (Fraser, Sex as Gift, tr.28) . “Nếu trong vài trường hợp việc cô chống cự sẽ đem đến kết quả là anh ta cắt đứt mối tương giao thì phải chắc chắn rằng trong mối tương quan đó đã không có sự tôn trọng con người là phần thiết yếu của một tình yêu chân thật” (Fraser, Sex as Gift, tr.28). Ngoài ra, chính việc đòi hỏi “bằng chứng” cho tình yêu đã đủ để chứng minh rằng thanh niên đang nghi ngờ tình yêu của bạn mình, nếu không phải là nghi ngờ tình yêu của chính mình. Có thể xảy ra là thanh niên đó thành thực về mối nghi ngờ của mình. Nhưng bằng chứng là việc giao hợp thì hết sức tối nghĩa, cho nên khó có thể giúp thanh niên ấy hết nghi ngờ. Hoặc hay xảy ra hơn, thanh niên đó chưa yêu thực sự cô gái, vì khi giao hợp mà chưa kết hôn, nhiều hậu quả không hay có thể xảy ra mà người gánh chịu phần lớn hậu quả là cô gái. Anh ta không nghĩ cho cô gái, mà chỉ muốn thỏa mãn dục vọng chiếm hữu của chính mình.
[22] Hầu hết các việc giao hợp trước hôn nhân là biểu lộ một tâm lý chưa trưởng thành tính dục: thanh niên cần xác định về nam tính của mình qua việc giao hợp.
[23] “Đức khiết tịnh tiền hôn nhân và sự chung thủy hôn nhân đi liền với nhau và cùng đứng vững hay cùng sụp đổ” (Evelyn M. và Sylvanus M. Duval, Sense and nonsense about Sex, tr. 81). “Sự khác biệt về bản chất tình dục giữa nam và nữ là một lý do tại sao phương thế tốt nhất để lấy được chồng là đừng cho bạn trai cái mà cậu muốn chiếm hữu trước hôn nhân”’ (Evelyn M. và Sylvanus M. Duval, Sense and nonsense about Sex, tr. 81).
[24] Trích trong tập giáo trình “Luân Lý Chuyên Biệt”, không rõ tác giả, lưu hành nội bộ, trước 1975.
[25] Thuận An, “Sex sớm khổ nhiều”, https://vnexpress.net/sex-som-kho-nhieu-2306950.html
[26] TA II-II, q. 153, a.4.
[27] Trích trong tập giáo trình “Luân Lý Chuyên Biệt”, lưu hành nội bộ, trước 1975.
Không rõ tác giả, theo thông tin đáng tin cậy, có lẽ là một giáo sư luân lý tại Giáo Hoàng Học viện Đà Lạt.
[28] Trích trong tập giáo trình “Luân Lý Chuyên Biệt”, lưu hành nội bộ, trước 1975.
[29] Trích trong tập giáo trình “Luân Lý Chuyên Biệt”, lưu hành nội bộ, trước 1975.
[30] Chúa Giêsu cũng đã khẳng định: “thuở ban đầu Đấng tạo hóa đã làm ra con người có nam có nữ…Vì thế người ta sẽ lìa bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt….Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” ( Mt 19, 5-6). Điều Chúa Giêsu nói không chỉ dành cho hôn nhân Công Giáo mà cho tất cả mọi cuộc hôn nhân. Như vậy tất cả các cuộc hôn nhân dù là hôn nhân ngoại giáo cũng đều mang những đặc tính chính yếu là đơn nhất tức là một vợ một chồng và bất khả phân ly như Công Đồng Tridentino đã định tín : “Mọi hôn nhân hợp pháp do luật tự nhiên và thiên định đều vĩnh viễn và bất khả phân ly”. Tức là hôn nhân của những người lương nếu không có ngăn trở theo luật tự nhiên và thiên luật thì được coi là thành sự.
Giáo Luật mới đã trình bày ở điều 1056: “Những đặc tính chính yếu của hôn nhân là sự đơn nhất và bất khả phân ly…” Điều Giáo Luật này còn thêm: “…những đặc tính này có sự bền vững đặc biệt trong hôn nhân Kitô giáo vì có tính cách bí tích.” Như vậy, những đặc tính mà ta vừa nói trong hôn nhân Kitô giáo được củng cố bền vững nhờ tính bí tích chứ không phải là đặc tính riêng của hôn nhân Công Giáo và các cuộc hôn nhân khác dù là hôn nhân tự nhiên cũng bị ràng buộc bởi những đặc tính đơn nhất và bất khả phân ly nên người ta không có quyền tự do ly hôn hoặc hoặc tự do quan hệ ngoài hôn nhân. Cũng phải lưu ý thêm rằng hôn nhân ngoài Kitô giáo dù không phải là bí tích cũng mang tính thánh thiêng vì đã được Thiên Chúa chúc lành từ ban đầu ( Sáng thế 1, 28). Những hôn nhân này được gọi là hôn nhân tự nhiên. Một người ngoại giáo dù đã ly dị về mặt dân sự thì dây ràng buộc hôn nhân tự nhiên vẫn tồn tại nên không thể kết hôn thành sự với người Công Giáo được. (Theo Lm Giuse Nguyễn Ngọc Bích, CsSR, “Hôn nhân tự nhiên và hôn nhân bí tích”, http://giaophanthaibinh.org/a3575/Hon-nhan-Tu-Nhien-va-Hon-nhan-Bi-Tich.aspx
[31] “Bảy Lời Khuyên của Đức Phanxicô cho một nền giáo dục tính dục ‘tốt’”
http://xuanbichvietnam.net/trangchu/bay-loi-khuyen-cua-duc-phanxico-cho-mot-nen-giao-duc-tinh-duc-tot/, Tý Linh chuyển ngữ theo Gelsomino Del Guercio, aleteia.org.
[32] Trích trong Nguyễn Đình Vịnh, “Cảm tính và dục tính: Những vấn đề liên quan đến tính dục đối với các tu sĩ/ Linh mục”.
[33] Trích trong Nguyễn Đình Vịnh, “Cảm tính và dục tính: Những vấn đề liên quan đến tính dục đối với các tu sĩ/ Linh mục”.
[34] Trích trong “tờ rơi” của Ban Bảo Vệ Sự Sống tại Philippines.
#songkhiettinhonguoitrechuakethon