THỨ HAI
Bài Ðọc 1
Ds 24, 2-7.15-17a
Trong những ngày ấy, Balaam ngước mắt lên nhìn Israel cắm trại theo từng bộ lạc, và Thánh Thần Chúa ngự xuống trên ông, ông liền tuyên sấm và nói: “Lời sấm của Balaam, con ông Beor, lời sấm của người đang mở mắt; lời sấm của người nghe lời Thiên Chúa, của người chiêm ngắm Ðấng Toàn Năng, của người ngã mà mắt vẫn mở. Hỡi nhà Giacóp, doanh trại của ngươi đẹp biết bao! Hỡi Israel, chỗ cư ngụ của ngươi tốt dường nào! Nó rộng lớn như thung lũng, như những vườn bên dòng sông, như cây trầm hương mà Thiên Chúa đã trồng, như cây hương nam bên suối nước. Nước tràn ra khỏi thùng chứa, và hạt giống của ngươi được tưới dư dật. Vua ngươi sẽ trổi vượt Agag, và vương quốc ngươi sẽ uy hùng”.
Balaam lại tuyên sấm và nói: “Lời sấm của Balaam, con của Beor, lời sấm của người đang mở mắt, lời sấm của người nghe lời Thiên Chúa, của người biết ý nghĩ Ðấng Tối Cao, của người xem thấy hình ảnh Ðấng Toàn Năng, của người ngã mà mắt vẫn mở. Tôi thấy Người, chưa phải bây giờ. Tôi thấy Người không phải gần. Một ngôi sao từ Giacóp mọc lên. Một phủ việt từ Israel xuất hiện”.
Tin mừng
Mt 21,23-27
Khi ấy Chúa Giêsu vào Ðền thờ. Lúc Người giảng dạy, các thượng tế và kỳ lão trong dân đến hỏi Người rằng: “Ông lấy quyền nào mà làm những điều này? Ai đã ban quyền ấy cho ông?” Chúa Giêsu trả lời: “Tôi cũng hỏi các ông một điều. Nếu các ông trả lời cho tôi, thì tôi sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều đó. – Phép Rửa của Gioan bởi đâu mà có? Bởi trời hay bởi người ta?” Họ bàn tính với nhau rằng: “Nếu ta nói bởi trời, thì ông sẽ nói với ta: Vậy tại sao các ngươi không tin ông ấy? Và nếu ta nói bởi người ta, thì chúng ta lại sợ dân chúng. Vì mọi người coi Gioan như một vị tiên tri”. Bấy giờ họ trả lời Chúa Giêsu rằng: “Chúng tôi không được biết”. Chúa Giêsu nói với họ: “Tôi cũng không nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều đó”.
Suy niệm
Trên đường vào Đất Hứa, dân Do Thái xin mượn đường băng qua xứ Mô-áp. Vua Mô-áp là Ba-lác phát sợ, cho đoàn sứ giả đi mời ông Balaam ở bờ Sông Cả, là người có phép nguyền rủa và chúc lành một cách hiệu quả. Ông thỉnh ý Chúa và ban đêm Chúa bảo ông không được đi, không được nguyền rủa dân này. Nhà vua lại sai đoàn thứ hai đến mời. Đêm ấy Chúa nói ông cứ đi, nhưng chỉ làm theo những gì Chúa bảo. Bảy lần ông mở miệng để nguyền rủa dân Do Thái thì bảy lần ông phải nói lời chúc phúc theo lệnh của Chúa. Lần thứ bảy ông đã nói: “Tôi thấy nó, nhưng bây giờ chưa phải lúc, tôi nhìn, nhưng chưa thấy nó kề bên; một vì sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel”. (Ds 24, 17). Lời sấm này rất được chú ý trong truyền thống của Do Thái. Họ chờ “một vì sao xuất hiện từ Giacóp” sẽ là vị cứu tinh cho dân tộc họ.
Mùa Vọng là mùa mong chờ vị Cứu Tinh mà Thiên Chúa gởi đến cho nhân loại. Hình ảnh của ông Balaam gợi lên cho chúng ta một vài tâm tình trong mùa Vọng này:
– Tôi đã “thỉnh ý Đức Chúa” để biết mình phải làm gì trong cuộc sống chưa? Hay nói một cách cụ thể tôi đã biết cầu nguyện để biết thánh ý Chúa chưa?
– Những lần Thiên Chúa cho ông Balaam biết ý định của Ngài đều vào ban đêm, là lúc không gian tĩnh lặng, khi mọi sự xung quanh dường như không còn hoạt động. Điều đó nhắc nhở cho tôi biết, tôi chỉ có thể gặp gỡ Chúa khi thinh lặng nội tâm.
– Dù ông muốn nói lời nguyền rủa dân Do Thái, nhưng hễ mở miệng ra là ông nói lời chúc lành theo như Chúa muốn. Điều đó cảnh báo cho tôi biết đường lối của con người không thể chống lại đường lối của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con biết cầu nguyện nhiều hơn trong mùa Vọng, nhất là mùa Vọng của cuộc đời con, để con có thể Chúa muốn con làm gì trong khi trông chờ Chúa đến.
Xin cho con luôn giữ được sự bình an trong tâm hồn, dù cho cuộc sống của con có nhiều xáo trộn, nhiều lo toan, vất vả.
Nhất là xin cho con hiểu rằng con chỉ là tạo vật nên phải biết để cho Chúa là Đấng tạo hóa nắn nên cuộc đời con theo ý của Ngài.
THỨ BA
Bài đọc 1
Xp 3,1-2.9-13
Chúa phán: Khốn cho thành phản nghịch và ô uế, cho thành làm sự hung bạo. Nó không nghe lời, không chịu sửa dạy, không tin tưởng vào Thiên Chúa, không đến gần Chúa mình.
Bấy giờ Ta sẽ cho dân Ta môi miệng thanh sạch để mọi người kêu cầu danh Chúa và nhất tâm phụng sự Người. Từ phía bên kia các sông xứ Ethiôpi, con cái những kẻ tha hương kêu cầu Ta, đem lễ vật đến dâng cho Ta.
Ngày đó, ngươi sẽ không còn phải xấu hổ vì các lỗi lầm của ngươi đã phạm đến Ta. Vì Ta sẽ cất xa khỏi ngươi những kẻ chiến thắng kiêu căng và từ đây, ngươi sẽ mãi mãi được vinh quang trên núi thánh Ta. Ta sẽ để lại giữa ngươi một dân tộc nghèo khó và thiếu thốn và họ sẽ tin tưởng vào danh Chúa. Những người Israel còn sót lại sẽ không làm điều gian ác, không nói dối, người ta không thấy chúng nói lời phỉnh gạt. Chúng sẽ như đàn chiên ăn cỏ và nghỉ ngơi, và sẽ không ai làm phiền chúng.
Tin mừng
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: “Các ông nghĩ sao? Người kia có hai người con. Ông đến với đứa con thứ nhất và bảo: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn cho cha!” Nó thưa lại rằng: “Con không đi”. Nhưng sau nó hối hận và đi làm. Ông đến gặp đứa con thứ hai và cũng nói như vậy. Nó thưa lại rằng: “Thưa cha, vâng, con đi”. Nhưng nó lại không đi. Ai trong hai người con đã làm theo ý cha mình?” Họ đáp: “Người con thứ nhất”. Chúa Giêsu bảo họ: “Quả thật, Ta bảo các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông. Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài”.
Suy niệm
Cũng như một số tiên tri khác, sứ điệp của Xôphônia được tóm lại trong việc loan báo về“ngày của Thiên Chúa”, nhưng ngày đó là để trừng phạt Giuđa. Giuđa bị kết án vì những tội lỗi của họ xuất phát từ lòng kiêu căng và sự phản loạn: “Khốn cho thành phản loạn và ô uế, khốn cho thành tàn bạo không nghe tiếng kêu mời, chẳng tiếp thu lời sửa dạy, không cậy trông vào Đức Chúa, chẳng đến gần Thiên Chúa của mình”.
Đồng thời Thiên Chúa hướng ơn cứu độ của mình đến với những dân tộc khác: “Bấy giờ Ta sẽ làm cho môi miệng chư dân nên tinh sạch để tất cả đều kêu cầu danh Đức Chúa”.
“Ngày của Thiên Chúa” mà Xôphônia loan báo chính là sự xuất hiện của Đấng Messia. Khi Đấng Messia xuất hiện, dân của Ngài đã không đón nhận vì sự kiêu căng và phản loạn. Vì vậy mà ơn cứu độ đã dành cho một dân tộc khác, “một dân nghèo hèn và bé nhỏ”; dân này không có biên giới, không có lãnh thổ, kể cả những người ngoại cũng được kể vào dân này, nhưng với điều kiện là họ “sẽ không làm chuyện tàn ác bất công, cũng không ăn gian nói dối và miệng lưỡi chúng sẽ không còn phỉnh gạt”.
Đến thời Tân ước, sự xuất hiện của Gioan Tẩy Giả là để dọn đường cho Đấng Cứu Thế, nhưng họ đã không tin ông. Thế nhưng “những người thu thuế và cô gái điếm lại tin”. Họ được mệnh danh là những kẻ tội lỗi công khai, nhưng lại được cứu độ nhờ đón nhận sứ điệp Gioan loan báo.
Thái độ kiêu căng, tự mãn sẽ làm cho chúng ta không thể đón nhận ơn cứu độ. Ngược lại lòng khiêm nhường, sám hối sẽ giúp chúng ta mở lòng ra để đón nhận ơn Chúa.
Lạy Chúa, trong khi mong chờ Chúa đến, xin cho chúng con luôn ý thức thân phận khốn cùng của mình để càng tha thiết chờ mong ơn Chúa hơn. Xin giúp con tránh xa thái độ tự mãn, bất cần đời, bất cần Chúa; nếu có thì xin cho con biết đón nhận lời kêu của Gioan để “dọn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”.
THỨ TƯ
Bài đọc 1
Is 45,6b-8.18.21b-25
Chính Ta là Chúa, và không có Chúa nào khác. Ta đã dựng nên ánh sáng và tối tăm. Ta đã dựng nên hạnh phúc và tai hoạ. Chính Ta là Thiên Chúa đã làm những sự ấy. Trời cao, hãy đổ sương mai! Ngàn mây, hãy mưa Ðấng Công Chính! Ðất hãy mở ra và trổ sinh Ðấng Cứu Ðộ, và đồng thời sự công chính hãy xuất hiện. Chính Ta là Chúa đã dựng nên loài người. Vì Thiên Chúa, Ðấng đã dựng nên các tầng trời, chính Người đã dựng nên địa cầu, đã tạo ra và làm cho (nó) bền vững. Người không dựng nên địa cầu hoang vu, nhưng đã dựng nên cho người ta ở, chính Người phán: Ta là Chúa và không có Chúa nào khác. Nào Ta chẳng phải là Chúa, và ngoài Ta, còn có Chúa nào khác đâu? Không có Thiên Chúa công bình và cứu độ nào khác ngoài Ta.
Hỡi các người ở tận cùng trái đất, hãy trở lại cùng Ta và các ngươi sẽ được cứu thoát. Vì Ta là Thiên Chúa và không có Chúa nào khác. Ta lấy tên Ta mà thề; lời công chính phát xuất từ miệng Ta sẽ không trở lại: mọi gối sẽ quỳ xuống trước mặt Ta, và mọi lưỡi sẽ lấy tên Ta mà thề rằng: Nhờ Chúa mà tôi sẽ được công chính và sức mạnh. Người ta sẽ đến cùng Chúa, và mọi kẻ chống đối Người sẽ phải hổ thẹn. Toàn thể dòng dõi Israel sẽ được công chính hoá và được hiển vinh.
Tin mừng
Lc 7,19-23
Khi ấy, Gioan gọi hai người trong số môn đệ của mình, sai họ đến thưa Chúa Giêsu rằng: “Ngài là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải chờ đợi Ðấng nào khác?” Khi những người này đến cùng Chúa Giêsu, họ thưa Ngài rằng: “Gioan Tẩy Giả sai chúng tôi đến hỏi Ngài: Ngài có phải là Ðấng phải đến, hay chúng tôi còn phải đợi Ðấng nào khác?” Ngay lúc đó, Chúa chữa những người khỏi bệnh hoạn tật nguyền và quỷ ám, và cho nhiều người mù được thấy. Ngài đáp lại rằng: “Các ông hãy về thuật lại cho Gioan những điều các ông đã nghe và đã thấy: người mù xem được, người què đi được, người phong hủi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết sống lại, kẻ nghèo khó được rao giảng tin mừng; và phúc cho ai không vấp phạm vì Ta”.
Suy niệm
Bài đọc 1 giới thiệu cho chúng ta về một Thiên Chúa:
– Người là Thiên Chúa duy nhất, ngoài Người ra không có thần nào khác.
– Người là Thiên Chúa tạo dựng ánh sáng, trời đất và muôn loài. Người dựng chúng “để cho người ta ở”, nghĩa là tạo vật được dựng nên vì con người.
– Người là Thiên Chúa công bình và là nguồn ơn cứu độ. Ai tin nhận và trở lại cùng Người thì được ơn cứu độ.
Trong bài Tin mừng, Gioan Tẩy Giả sai hai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu: “Ngài là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?”. “Đấng phải đến” trong suy nghĩ của người Do thái chính là Đấng Mêsia.
Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp, nhưng bảo hai môn đệ về thuật lại cho Gioan Tẩy Giả những gì hai ông đã chứng kiến: người mù xem được, người què đi được, người phong hủi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết sống lại, kẻ nghèo khó được rao giảng tin mừng. Đó là sứ mệnh Đấng Mêsia mà tiên tri Isaia đã tiên báo (x, Is 61,1-2) và nay được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Khi thấy những việc Chúa Giêsu làm, người ta biết rõ Ngài là ai? Ngài chính là “Đấng phải đến”, ngoài Ngài ra, không còn Đấng nào khác mà con người phải chờ mong.
Mùa vọng là mùa chờ đợi. Chúng ta mong chờ “Đấng phải đến” mà bài Tin mừng vừa nói đến. Chúng ta mong chờ Ngài không phải để Ngài chữa lành những bệnh hoạn phần xác như đui mù, què quặc.. mà chính là để Ngài ban cho chúng ta sự sống đời đời. Ngoài Ngài ra, không còn Đấng nào khác có thể ban cho chúng ta sự sống đời đời.
Hãy quay trở về với Chúa. Hãy trong tâm thế sẵn sàng trong khi chờ đợi “Đấng phải đến”.
Lạy Chúa, Ngài là Chúa duy nhất của con, là nguồn ơn cứu độ của con. Con tin rằng, ngoài Chúa ra không ai có thể mang đến cho chúng con sự sống đời đời. Xin giúp chúng ta luôn xác tín điều đó, và xin cho chúng con luôn sống niềm xác tín đó. Amen.
THỨ NĂM :17/12
Bài đọc 1
St 49,2.8-9
Ngày ấy, Giacóp triệu tập con cái lại và nói rằng: “Hỡi con cái Giacóp, hãy hợp lại và nghe cha đây. Hỡi nhà Israel, hãy nghe lời cha của các con. Giuđa, anh em con sẽ ca tụng con. Bàn tay con sẽ đè trên ót quân thù; con cái của cha con sẽ phục lạy con. Giuđa là sư tử con, hỡi con của cha, con đã chồm lên bắt mồi, con đã nằm xuống nghỉ ngơi, như giống sư tử đực, tựa nòi sư tử cái, ai dám khiêu khích nó? Phủ việt sẽ không cất khỏi Giuđa, gậy chỉ huy không rời khỏi chân nó, cho đến lúc Ðấng thiên sai ngự đến, là Ðấng chư dân đợi trông”.
Tin mừng
Mt 1,1-17
Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít, con của Abraham. Abraham sinh Isaac; Isaac sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuđa và các anh em người. Giuđa sinh Phares và Zara bởi bà Thamar; Phares sinh Esrom; Esrom sinh Aram; Aram sinh Aminadab; Aminadab sinh Naasson; Naasson sinh Salmon; Salmon sinh Booz do bà Rahab; Booz sinh Giobed do bà Rút. Giobed sinh Giêsê; Giêsê sinh vua Ðavít.
Ðavít sinh Salomon do bà vợ của Uria; Salomon sinh Robo-am; Roboam sinh Abia; Abia sinh Asa; Asa sinh Giosaphát; Giosaphát sinh Gioram; Gioram sinh Ozia; Ozia sinh Gioatham; Gioatham sinh Achaz; Achaz sinh Ezekia; Ezekia sinh Manasse; Manasse sinh Amos; Amos sinh Giosia; Giosia sinh Giêconia và các em trong thời lưu đày ở Babylon.
Sau thời lưu đày ở Babylon, Giêconia sinh Salathiel; Sala-thiel sinh Zorababel; Zorababel sinh Abiud; Abiud sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Sađoc; Sađoc sinh Akim; Akim sinh Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Mathan; Mathan sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuse, là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô.
Vậy, từ Abraham đến Ðavít có tất cả mười bốn đời, từ Ðavít đến cuộc lưu đày ở Babylon có mười bốn đời, và từ cuộc lưu đày ở Babylon cho đến Chúa Kitô có mười bốn đời.
Suy niệm
Sách Sáng thế thuật lại cho chúng ta lịch sử thời nguyên thủy và lịch sử các tổ phụ.
Đoạn St 49,2.8-9 nằm trong lịch sử của các tổ phụ, nói về ông Giacóp là một con người mưu mô để dành phúc lành nhờ quyền trưởng tử của anh mình là Êsau. Tuy nhiên sự mưu mô của ông sẽ chẳng có ích gì nếu Thiên Chúa không ưa thích ông hơn Êsau ngay khi 2 ông còn nằm trong bụng mẹ. Sau đó đến phiên Giacóp cũng ưu ái chúc lành cho Giuđa. Ông loan báo cho những người con của ông biết nhà Giuđa sẽ là nhà lãnh đạo, và những anh em khác dù muốn dù không vẫn phải phục quyền người anh em mà Giacóp đã chọn: “Vương trượng sẽ không rời khỏi Giuđa, gậy chỉ huy sẽ không lìa đầu gối nó”. Nhưng đây chỉ là khởi đầu cho một thời kỳ mới, vì thời của Giuđa sẽ chấm dứt “cho tới khi người làm chủ vương trượng đến, người mà muôn dân phải vâng phục”.
Trong bài Tin Mừng, Matthêu viết lại gia phả của Chúa Giêsu. Khởi đi từ Abraham, rồi đến Isaac, rồi Giacóp… cuối cùng là Đức Giêsu. Như vậy rõ ràng Chúa Giêsu là người làm chủ vương trượng của nhà Giuđa, người mà muôn dân phải vâng phục.
Những bài đọc lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy sự chuẩn bị của Thiên Chúa dành cho ơn cứu độ của con người, mà đỉnh điểm là Đức Giêsu Kitô. Qua đó con người càng phải cảm nhận được tình thương của Thiên Chúa trong suốt dòng lịch sử nhân loại, lịch sử đời mình và lịch sử đời người. Từng giây phút trong đời đều là thời gian ân sủng. Từng con người trong cuộc sống đều là dấu chỉ niềm vui ơn cứu độ.
Lạy Chúa, xin cho con nhận ra chương trình của Chúa trong từng biến cố vui buồn của cuộc sống. Xin cho con thấy được nơi mỗi con người con gặp gỡ đều là bước chuẩn bị của Thiên Chúa dành cho con, để cho con biết yêu đời, yêu người nhiều hơn.
THỨ SÁU : 18/12
Bài đọc 1
Gr 23,5-8
Này đây, đã tới những ngày Ta gây cho Ðavít một mầm giống công chính, mầm giống này sẽ làm vua thống trị, sẽ là người khôn ngoan, thực hiện công lý và đức công bình trên đất nước. Những ngày ấy, Giuđa sẽ được cứu thoát, Israel sẽ được an cư, và chúng sẽ gọi tên Người là “Chúa công bình của chúng ta”.
Chúa phán: “Vì thế, đã đến ngày chúng không còn nói được rằng: “Chúa hằng sống, Người đã đưa con cái Israel ra khỏi đất Ai-cập”, nhưng chúng nói: “Chúa hằng sống, Người đã đưa dòng dõi nhà Israel ra khỏi đất Bắc”; (và) từ các nước chúng bị Ta phân tán, Ta dẫn đưa chúng về quê hương.
Tin mừng
Mt 1,18-24
Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của Bà là người công chính, không muốn tố cáo Bà, định tâm lìa bỏ Bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thiên thần Chúa hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: “Hỡi Giuse, con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần: Bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội”.
Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng: “Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”.
Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền: Ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu.
Suy niệm
Giêrêmia loan báo về “một chồi non chính trực” sẽ xuất phát từ nhà Đavít. Đây sẽ là một vị vua khôn ngoan, tài giỏi, sẽ “thi hành điều chính trực công minh”.
Lời loan báo này dĩ nhiên là về Đấng Messia sẽ xuất thân từ dòng dõi vua Đavít.
Liên kết với đoạn Tin Mừng Mt 1,18-24, chúng ta thấy cũng từ dòng dõi Đavít có một con người “công minh, chính trực” là Giuse.
Người công chính theo Thánh Kinh là một con người biết bỏ qua dự định của mình để làm theo chương trình của thiên Chúa. Ông Giuse đã có dự định của mình sau khi biết Đức Maria đã có thai dù hai người chưa về chung sống. Theo người đời, dự định của Giuse là quá tốt lành. Nhưng Thiên Chúa lại có chương trình khác, và Giuse đã mau mắn vâng theo, vì vậy ông được gọi là người công chính.
Trong những ngày gần kề với lễ Giáng Sinh, lời Chúa sẽ lần lượt giới thiệu cho chúng ta những con người cộng tác với chương trình của Thiên Chúa, mỗi người một nhân đức khác nhau. Hôm nay lời Chúa cho chúng ta chiêm ngắm ông Giuse với sự công chính của ông.
Lạy Chúa rất nhiều khi con có chương trình của riêng con. Chương trình này lắm lúc sai hoàn toàn như con dự định làm một điều gì đó không đúng đắn. Dĩ nhiên con phải từ bỏ. Nhưng cũng có khi chương trình của con rất tốt như một một việc từ thiện, bác ái… Tuy nhiên Chúa lại không muốn con làm điều đó, nhưng làm điều khác. Chính điều này khiến con chống cãi lại thánh ý của Chúa nhiều nhất, vì theo con điều tốt thì nên làm. Nhưng để có thể trở thành người công chính, không phải con chỉ làm điều tốt, mà còn phải làm điều Chúa muốn nữa. Xin cho con nhận ra điều nào Chúa muốn và cho con dám mạnh dạn từ bỏ ý của riêng con để làm theo ý Chúa.
THỨ BẢY: 19/12
Bài đọc 1
Tl 13,2-7.24-25a
Ngày ấy có một người đàn ông, bởi đất Sara và thuộc chi họ Ðan, tên là Manuel, có người vợ son sẻ.
Thiên Thần Chúa hiện ra nói với bà ấy rằng: “Ngươi son sẻ không con; nhưng sẽ được thụ thai, và hạ sinh một con trai. Vậy ngươi hãy cẩn thận, đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn món gì không thanh sạch. Vì ngươi sẽ được thụ thai, và hạ sinh một con trai. Lưỡi dao cạo sẽ không chạm đến đầu nó; nó là người được hiến dâng cho Thiên Chúa từ thuở nhỏ và từ lòng mẹ; chính nó sẽ bắt đầu giải phóng Israel khỏi tay người Philitinh.”
Bà nầy đi nói với chồng rằng: “Có một người của Thiên Chúa đến cùng tôi, với diện mạo Thiên Thần, rất đáng sợ. Tôi hỏi người ấy là ai, bởi đâu đến, gọi tên gì. Người ấy không muốn nói cho tôi biết. Nhưng lại trả lời rằng: “Rồi đây, ngươi sẽ được thụ thai và hạ sinh một con trai: hãy cẩn thận, đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn món gì không thanh sạch. Vì con trẻ sẽ là người được hiến dâng cho Thiên Chúa từ thuở nhỏ và từ trong lòng mẹ, cho đến ngày nó chết”.
Bà đã hạ sinh một con trai, và gọi tên là Samson. Hài nhi lớn lên, và Chúa đã chúc phúc cho nó. Và thần tri Chúa bắt đầu ở với nó.
Tin mừng
Lc 1,5-25
Vào thời Hêrôđê làm vua xứ Giuđêa, có một tư tế tên là Giacaria, thuộc phiên ban Abia, và vợ ông bởi dòng dõi Aaron, tên là Elisabéth. Cả hai là người công chính trước mặt Thiên Chúa, ăn ở theo mọi giới răn và lề luật của Chúa, không ai trách được điều gì. Nhưng họ lại không con, vì Elisabéth son sẻ, và cả hai đã đến tuổi già.
Xảy ra khi Giacaria chu toàn chức vụ tư tế trước mặt Thiên Chúa, theo lượt của phiên mình như tục lệ hàng tư tế, ông bắt thăm và trúng việc vào cung thánh Chúa mà dâng hương. Ðang lúc toàn thể đám đông dân chúng cầu nguyện bên ngoài, trong giờ dâng hương.
Bấy giờ Thiên Thần Chúa hiện ra cùng ông, đứng bên phải hương án.
Giacaria thấy vậy hoảng hốt, sự kinh hoàng đột nhập vào ông.
Nhưng Thiên Thần nói với ông rằng: “Giacaria, đừng sợ, vì lời ngươi cầu nguyện đã được nhậm rồi. Elisabéth vợ ngươi sẽ hạ sinh cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ gọi tên trẻ là Gioan. Ngươi sẽ được vui mừng hân hoan, và nhiều người cũng sẽ vui mừng, vì việc trẻ sinh ra. Vì trẻ nầy sẽ nên cao trọng trước mắt Chúa, sẽ không uống rượu và thức có men, sẽ được tràn đầy Thánh Thần ngay từ lòng mẹ, sẽ đem nhiều con cái Israel trở về cùng Chúa là Thiên Chúa. Trẻ nầy sẽ đi trước Người, trong thần trí và quyền lực của Elia, để đổi lòng dạ cha ông về với con cháu, kẻ ngổ nghịch về lại với lương tri của những người công chính, dọn cho Chúa một đoàn dân chuẩn bị.
Giacaria thưa với Thiên Thần rằng: “Làm sao tôi biết được, vì tôi đây đã già, và vợ tôi cũng đã cao niên?”
Thiên Thần liền đáp: “Ta là Gabriel, ta đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, ta được sai đến nói với ngươi, và báo cho ngươi tin lành nầy. Thì đây, ngươi sẽ nín câm và không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra; bởi vì ngươi đã không tin lời ta, là những lời sẽ nên trọng khi đến thời của chúng”.
Dân chúng đang trông đợi Giacaria, lấy làm lạ vì ông ở lâu trong cung thánh. Nhưng lúc ra, ông không nói được, và họ biết ông đã thấy điềm lạ trong cung thánh. Còn ông thì chỉ làm hiệu cho họ, và vẫn bị câm.
Khi những ngày thánh vụ của ông đã mãn, ông trở về nhà. Sau những ngày ấy, Elisabéth vợ ông thụ thai, và bà ẩn mình trong năm tháng, bà nói rằng: “Chúa đã làm cho tôi thế nầy, trong những ngày Người đoái thương, cất nổi khổ nhục tôi khỏi người đời.
Suy niệm
Gần đến lễ Giáng Sinh, phụng vụ lời Chúa giới thiệu cho chúng ta những thụ thai lạ lùng.
Thứ nhất là câu chuyện của vợ ông Manuel trong sách Thủ Lãnh. Bà này tủi nhục vì thân phận son sẻ của mình. Thiên Chúa đã đoái thương đến cảnh khổ của bà nên sai sứ thần đến báo tin bà sẽ mang thai. Sứ thần cho bà biết thai này không phải do khả năng của con người, nhưng hoàn toàn do Thiên Chúa muốn ban cho vợ chồng bà: “Này, bà là người son sẻ và sẽ không sinh con, nhưng bà sẽ có thai và sinh một con trai”. Sứ thần còn cho biết sứ mạng của đứa bé này là “sẽ cứu dân Israel khỏi tay người Philitinh”.
Để Thần Khí của Đức Chúa có thể ở với nó để nó có thể cứu dân mình, thì phải tuân theo một số nguyên tắc: Không được uống thức có men, không được ăn những thứ không thanh sạch, không được cạo râu, hớt tóc… Điều này nghĩa là một người được thánh hiến cho Thiên Chúa để có thể thi hành sứ mạng Ngài trao thì phải tuân giữ những kỷ luật rất khắt khe. Đứa bé đó chính là Samsom. Nhờ cha mẹ và bản thân Samson tuân giữ đúng theo lệnh truyền của Đức Chúa, nên chàng đã có một sức mạnh phi thường. Tuy nhiên chính lúc Samson vi phạm lời thề Nadia (Nazir), thì chàng đã mất tất cả. Nhờ biết hối lỗi và nhớ đến sứ mạng của mình, nên Samson đã cầu nguyện với Chúa ban cho mình cơ hội cuối cùng để đoái công chuộc tội. Quả thật Thiên Chúa đã nhậm lời ông để ban cho ông có lại sức mạnh lần cuối cùng để tiêu diệt quân Philitinh.
Câu chuyện thứ hai là câu chuyện của vợ chồng ông Giacaria. Vốn là thượng tế, nhưng vợ chồng ông vẫn mang cảnh tủi nhục vì son sẻ. Nhưng nhờ lời cầu nguyện tha thiết của hai ông bà, nên Thiên Chúa đã đoái thương đến gia đình ông trong một lần ông được vào gian cực thánh để dâng lễ vật cho Thiên Chúa. Cũng vậy sứ thần báo cho ông biết về sự mang thai lạ lùng của vợ ông, cũng như sứ mạng của đứa bé và điều kiện để đứa bé này có thể thi hành sứ mạng của mình.
Qua hai câu chuyện về những đứa bé được sinh ra một cách khác thường, chúng ta thấy được Thiên Chúa luôn muốn cất khỏi sự tủi nhục cho những người tin tưởng vào Chúa. Đồng thời, còn cho những đứa bé này trở thành những nhân vật có tầm ảnh hưởng trong lịch sử dân tộc của nó. Quan trọng hơn cả là Thiên Chúa muốn báo cho nhân loại về một Đấng sẽ cứu cả nhân loại chứ không phải chỉ một dân tộc nào; một Đấng sẽ cất khỏi mặt đất sự tủi nhục của dân người.
Mỗi người chúng ta được sinh ra cũng là một sự kỳ diệu. Chính vì vậy chúng ta phải luôn luôn biết ơn Chúa.
Thiên Chúa cũng muốn trao cho mỗi người một sứ mạng quan trọng. Vì vậy mỗi người phải có những nguyên tắc để cuộc sống của họ được gắn bó với Chúa, hầu có thể thi hành sứ mạng Chúa trao. Để giữ nguyên tắc đó đòi hỏi con người phải có kỷ luật khắt khe để tránh cho mình bị “ô nhiễm” bởi những điều bất xứng.
Con cám ơn Chúa vì đã dựng nên con và còn cứu chuộc con để con được hạnh phúc đời đời. Xin cho con cũng trở thành dụng cụ để Chúa có thể dùng để cứu người khác. Muốn vậy thì xin cho con biết tránh xa những điều xấu và sống gắn bó với Chúa nhiều hơn.